[E] CEO Dragon Capital Việt Nam: Nâng hạng không phải ‘phép màu’ với cổ phiếu

VN-Index đã trải qua 3 tuần giảm điểm liên tiếp và đang sideway quanh 1.600 - 1700 điểm. Nhiều cổ phiếu đã chiết khấu 20–30% từ đỉnh. Xét theo tháng, VN-Index đã giảm 1,79% trong tháng 10 và là tháng giảm thứ hai liên tiếp (tháng 9 giảm 1,2%). Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam rơi vào pha điều chỉnh dù đón nhận nhiều thông tin tích cực từ cả trong và ngoài nước.

Với quốc tế, TTCK toàn cầu diễn biến tích cực trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung “hạ nhiệt”, Fed hạ 0,25 điểm phần trăm lãi suất và chấm dứt chương trình thắt chặt định lượng…

Trong nước, kinh tế vĩ mô ổn định với tăng tưởng GDP quý III cao kỷ lục (kể từ năm 2021), mùa BCTC quý III/2025 có nhiều điểm sáng, đặc biệt là các thông tin như chứng khoán Việt Nam được FTSE Russell nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp, gần đây là thông tin Việt Nam và Mỹ đã thống nhất về Khuôn khổ Hiệp định Thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng giữa 2 nước…

Trao đổi với Nhadautu.vn, TS. Lê Anh Tuấn – Tổng Giám đốc Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Dragon Capital Việt Nam đánh giá, khác với kỳ vọng của phần đông nhà đầu tư chứng khoán, nâng hạng không phải “phép màu” với cổ phiếu, mà cho thấy TTCK Việt Nam đang là điểm đến minh bạch, bền vững, uy tín với dòng vốn trong và ngoài nước.

Ông cũng nhìn nhận sự kiện nâng hạng sẽ đem đến nhiều cơ hội và thách thức với các bên liên quan.

Ông có cảm nghĩ thế nào trước cột mốc nâng hạng của TTCK Việt Nam?

Ông Lê Anh Tuấn: Việc được nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi là minh chứng cho thấy tổ chức quốc tế FTSE Russell công nhận những nỗ lực trong suốt hơn 1 thập kỷ của Chính phủ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan quản lý, cũng như các thành viên thị trường Việt Nam.

Đây có thể coi là một cột mốc quan trọng và ý nghĩa của TTCK Việt Nam trong hành trình gia nhập thị trường tài chính thế giới. Thực tế hiện nay, nhà đầu tư (NĐT) ngoại ưa chuộng mua cổ phiếu tại các thị trường mới nổi, thay vì các rổ chỉ số thị trường cận biên.

Có thể thấy, trong suốt 20 năm vận hành thị trường (trước nâng hạng – PV), TTCK Việt Nam không nằm trong danh mục đối chiếu (benchmark) của nhiều quỹ đầu tư nước ngoài, nghĩa là không thuộc thỏa thuận đầu tư giữa quỹ và NĐT. Do đó, tôi biết nhiều quỹ tuy rất thích đầu tư vào Việt Nam, nhưng thường phải xin phép và mất nhiều thời gian cho quá trình này. Giờ đây, khi chúng ta lên thị trường mới nổi, dòng vốn từ các NĐT này có thể chủ động tham gia vào TTCK Việt Nam hơn.

Cũng vì điều này, nhiều NĐT kỳ vọng nâng hạng sẽ là chất xúc tác thúc đẩy TTCK tăng trưởng hoặc dòng vốn ngoại “đảo chiều” quay trở lại thị trường. Tuy nhiên, điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều.

Việc TTCK Việt Nam tăng - giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tác động kinh tế vĩ mô, triển vọng lợi nhuận doanh nghiệp, hoặc là sự đầy đủ của các sản phẩm và công cụ tài chính, cho đến chính sách đảm bảo quyền lợi cho NĐT… Tương tự, dù được nâng hạng, vốn ngoại sẽ chưa trở lại TTCK Việt Nam và mua ròng 5-10 tỷ USD ngay lập tức.

Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng nâng hạng là điều kiện tiên quyết cho thấy chúng ta đã đáp ứng các yếu tố kỹ thuật của FTSE Russell nói riêng, cũng như đủ điều kiện gia nhập thị trường thế giới. Theo tôi, đây là sự chứng nhận quan trọng nhất.

Lên hạng thị trường mới nổi theo tiêu chuẩn của FTSE Russell chưa phải là đích đến cuối cùng, mà chỉ là điểm khởi đầu cho hành trình dài hạn của thị trường vốn Việt Nam. Chính phủ, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có kế hoạch để giữ hạng và nâng lên các mức cao hơn.

Lần đầu tiên, Chính phủ công bố một chiến lược toàn diện hướng tới mục tiêu đạt được vị thế thị trường mới nổi tiên tiến theo FTSE (FTSE Advanced EM) và thị trường mới nổi theo MSCI (MSCI Emerging) vào năm 2030, với những cải cách cụ thể và có chiều sâu.

Trong quá trình chinh phục MSCI, TTCK Việt Nam được kỳ vọng sẽ phát triển theo chiều sâu một cách triệt để. Tôi cho rằng sự phát triển 5 năm tới của TTCK sẽ bằng 10-15 năm trước cộng lại.

Để đạt mục tiêu này, 5 nhóm giải pháp đã được cơ quan quản lý đưa ra gồm:

Cải thiện khung pháp lý: Rà soát tỷ lệ sở hữu nước ngoài; tăng tỷ lệ tối đa và đưa ra khỏi danh mục những ngành nghề không cần thiết hạn chế; hoàn thiện cơ chế, chính sách và quy định pháp luật trong quản lý giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn cho NĐT.

Phát triển hạ tầng thị trường: Nâng cấp hệ thống thanh toán, bù trừ và triển khai CCP; giảm yêu cầu ký quỹ; áp dụng vay và cho vay chứng khoán, bán khống có kiểm soát, triển khai sản phẩm mới cho thị trường phái sinh; hiện đại hóa hệ thống giao dịch đáp ứng khối lượng giao dịch lớn, ứng dụng công nghệ mới.

Nâng cao tính minh bạch và quản trị: Áp dụng IFRS nâng cao chất lượng kiểm toán và tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp; tăng cường giám sát hoạt động kiểm toán và các công ty niêm yết nhằm củng cố niềm tin của NĐT.

Tăng thanh khoản và đa dạng hóa NĐT: Phát triển các loại lệnh, cơ chế giao dịch mới, đa dạng hóa sản phẩm như trái phiếu xanh; tăng cường đào tạo, phổ biến kiến thức cho NĐT; phát triển NĐT tổ chức, quỹ đầu tư.

Ổn định chính sách tài chính vĩ mô: Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.

Nâng hạng sẽ đem đến cơ hội và thách thức cho các công ty niêm yết như thế nào?

Ông Lê Anh Tuấn: Nâng hạng sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Với sự tham gia nhiều hơn của NĐT nước ngoài thông qua các quỹ chủ động, quỹ đầu tư bám sát chỉ số, cổ phiếu về cơ bản sẽ được định giá lại với hệ số thu nhập (P/E) cao hơn do cầu mua tăng và mức rủi ro của vốn chủ sở hữu cũng thấp hơn.

Định giá TTCK Việt Nam (P/E) trong quá khứ bình quân khoảng 11 – 12 lần, còn khi được nâng hạng, tôi nghĩ sẽ nâng lên mức 14 – 16 lần. Lâu nay, nhiều NĐT thường tự hào rằng TTCK Việt Nam được định giá rẻ, nhưng tôi nghĩ điều này không tốt trong dài hạn. Bởi việc định giá thị trường cao hơn sẽ đem đến nhiều lợi ích cho doanh nghiệp niêm yết.

Các nghiên cứu của Dragon Capital chỉ ra rằng: Việc được đưa vào chỉ số có thể làm giảm chi phí vốn cho các công ty Việt Nam, từ đó dẫn đến định giá cao và hợp lý hơn, thể hiện rõ rệt qua tỷ lệ P/E của các cổ phiếu.

Với sự theo dõi của nhiều nhà phân tích hơn và tầm nhìn toàn cầu, các công ty Việt Nam có thể được đánh giá cao hơn về triển vọng tăng trưởng so với khi còn là thành viên ít được chú ý trong các rổ chỉ số thị trường cận biên.

Lực mua tăng mạnh từ các NĐT mới có thể tác động tích cực đến giá cổ phiếu. Minh chứng cho thấy cả UAE và Qatar đều chứng kiến hệ số P/E tăng sau khi được nâng hạng lên MSCI EM vào năm 2014; thị trường Ả Rập Xê Út cũng được định giá lại sau năm 2019 nhờ hoạt động mua mạnh từ NĐT nước ngoài và sự cải thiện trong nhận thức của NĐT về quản trị và chất lượng thị trường.

Ông có lời khuyên như thế nào đối với NĐT cá nhân trước "vận hội" mới của TTCK?

Ông Lê Anh Tuấn: Nhiều NĐT kỳ vọng nâng hạng thị trường sẽ đem đến nhiều thay đổi cho thị trường và người tham gia. Tuy nhiên, nâng hạng không phải “phép màu” với cổ phiếu, mà cho thấy TTCK Việt Nam đang là nơi minh bạch, bền vững, uy tín để đầu tư với dòng vốn cả trong và ngoài nước.

Do đó, kể cả khi TTCK được nâng hạng, NĐT cá nhân không nên vì điều này mà bất chấp đầu cơ khi chưa hiểu rõ về doanh nghiệp. Thay vào đó, NĐT cá nhân cần kiên định trong đầu tư, tập trung vào những doanh nghiệp có nền tảng cơ bản tốt, minh bạch và phát triển bền vững. Đồng thời cần nâng cao nhận thức, kinh nghiệm, lựa chọn chiến lược đầu tư theo hướng trung và dài hạn, thay vì lướt sóng theo các biến động hàng ngày.

Ngoài ra, với hơn 99% là NĐT cá nhân (xét về số lượng tài khoản) trên TTCK Việt Nam, việc nâng cao nhận thức NĐT cần sự nỗ lực, chung tay của tất cả các bên từ cơ quan quản lý đến thành viên thị trường…

Minh chứng là tại Quyết định phê duyệt Đề án tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ đầu tư chứng khoán, Bộ Tài chính đề xuất nhiều giải pháp như xây dựng và triển khai Đề án tuyên truyền và Kế hoạch triển khai tổng thể 5 năm (2025 - 2030), thực hiện chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán; các chương trình đào tạo về sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức kinh doanh chứng khoán…

Dragon Capital cũng phối hợp với UBCKNN tổ chức triển khai nhiều chương trình chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm đầu tư với NĐT, đặc biệt là NĐT mới gia nhập thị trường, NĐT trẻ tuổi…

Trước vận hội mới của TTCK, ông có suy nghĩ gì về ngành quản lý quỹ?

Tôi có nhiều trăn trở về sự phát triển của ngành quản lý quỹ (QLQ) Việt Nam trong giai đoạn mới của TTCK Việt Nam.

Đầu tiên, chúng ta nhìn vào số lượng NĐT mở tài khoản và giao dịch chứng chỉ quỹ ở Việt Nam mới chỉ vỏn vẹn 300.000 đơn vị. Nếu xét lượng tài khoản có tiền và hoạt động thì có thể còn thấp hơn nữa. Xét trên tổng số lao động Việt Nam, tỷ lệ tài khoản chứng chỉ quỹ chỉ dưới 0,5%, đây là mức thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Trong khi đó, TTCK Việt Nam đem đến hiệu suất đầu tư vượt trội hơn tiền gửi. Do đó, việc phần lớn người dân Việt Nam chưa biết đến kênh đầu tư này là một điều đáng tiếc.

Thứ hai, nhiều người dân vẫn e dè và chưa tin tưởng việc đầu tư gián tiếp qua công ty quỹ. Đây là điều tôi rất băn khoăn và rõ ràng các công ty QLQ cần chung tay để ngành này được đánh giá đúng hơn và được công nhận hơn nữa.

Ngoài ra, xét về mặt công nghệ, tỷ lệ NĐT chuyển đổi từ mở eKYC đến đầu tư là khá thấp. Ở các ngân hàng, tỷ lệ mở eKYC đến gửi tiền đạt 70-80%, của Dragon Capital đạt 50-60%, một số quỹ khác tỷ lệ này còn thấp hơn từ 30-40%.

Xét ở khía cạnh khác, sau khoản đầu tư chứng chỉ quỹ đầu tiên, tỷ lệ NĐT giải ngân vào khoản thứ hai và thứ ba còn thấp hơn nữa. Đây là điều đáng tiếc, vì trong đầu tư quỹ mở và đầu tư chứng khoán, điều quan trọng là NĐT sẽ ở trong thị trường bao lâu để hưởng hiệu suất đầu tư.

Thứ tư, cần có một quy trình để NĐT hiểu hơn về sản phẩm quỹ và đầu tư dễ dàng hơn. Tôi thấy ứng dụng mua CCQ còn phức tạp, trong khi so sánh với một số app mua sắm thì chỉ cần thao tác đơn giản là mua hàng được rồi.

Cuối cùng, đó là việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) tại quỹ đầu tư. AI với khả năng phân tích dữ liệu có thể giúp quỹ đầu tư nâng cao hiệu suất thông qua việc dự đoán thị trường, phát hiện cơ hội đầu tư tiềm năng, cũng như rà soát gian lận và giúp quản trị rủi ro hiệu quả hơn. Bên cạnh nâng cao hiệu suất đầu tư, việc áp dụng AI còn giúp cải thiện dịch vụ hỗ trợ khách hàng, giúp họ hiểu rõ hơn về sản phẩm chứng chỉ quỹ.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

HUY NGỌC