Chứng khoán Châu Á: Chờ đợi dữ liệu lạm phát

Nhàđầutư
Các chỉ số chứng khoán Châu Á-Thái Bình Dương diễn biến trái chiều trong phiên sáng thứ hai đầu tuần, khi các nhà đầu tư đang chờ đợi loạt dữ liệu kinh tế quan trọng, đặc biệt là số liệu chỉ số lạm phát.
HỮU BẬT
04, Tháng 12, 2023 | 10:35

Nhàđầutư
Các chỉ số chứng khoán Châu Á-Thái Bình Dương diễn biến trái chiều trong phiên sáng thứ hai đầu tuần, khi các nhà đầu tư đang chờ đợi loạt dữ liệu kinh tế quan trọng, đặc biệt là số liệu chỉ số lạm phát.

Empty

TT Chứng khoán Châu Á diễn biến trái chiều. Ảnh: REUTERS/Kim Kyung-Hoon.

Mở cửa phiên thứ hai đầu tuần, chỉ số chứng khoán của Úc S&P/ASX200 mở phiên tăng 1,17%; chỉ số Kospi (Hàn Quốc) tăng 0,6%, Kosdaq cũng tăng 0,53%. Trong khi đó, Nikkei 225 (Nhật Bản) giảm 1% và Topix giảm 1,23%.

Chỉ số Hang Seng tương lai (Hong Kong) dừng ở 16.942 điểm, con số này nhỉnh hơn một chút so với mức đóng cửa của Hang Seng cuối tuần trước (1/12) là 16.830,3 điểm.

Số liệu lạm phát của Tokyo (Nhật Bản) sẽ được công bố vào thứ Ba, được coi là chỉ báo hàng đầu về số liệu toàn quốc. Con số lạm phát của Hàn Quốc cũng sẽ được công bố cùng ngày.

Ngân hàng Dự trữ Úc sẽ tổ chức cuộc họp cuối cùng trong năm vào ngày mai (5/12). Một thăm dò của Reuters cho thấy nhà băng này dự kiến vẫn giữ nguyên lãi suất ở mức 4,3%.

Tại Hoa Kỳ, trong phiên thứ sáu (1/12), S&P 500 và Dow Jones tiếp tục đạt mức cao mới trong năm 2023 khi lần lượt tăng 0,59% và 0,82%. Cùng với đó, chỉ số Nasdaq Composite tăng 0,55%.

Nhìn chung, đà phục hồi mạnh của chứng khoán Hoa Kỳ trong tháng 11 một phần là nhờ các nhà giao dịch bắt đầu tin tưởng rằng FED đã hoàn tất việc nâng lãi suất và thậm chí ngân hàng trung ương có thể bắt đầu cắt giảm lãi suất trong nửa đầu năm tới. Được biết, theo dự kiến quyết định lãi suất tiếp theo của Fed sẽ được đưa ra vào ngày 13/12.

Dù vậy, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell mới đây đã bác bỏ những kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm lãi suất trong thời gian tới, khi cho rằng “còn quá sớm để kết luận quá tự tin” rằng chính sách tiền tệ đã “đủ thắt chặt”.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ