[Café cuối tuần] Kinh tế tăng trưởng và thặng dư thương mại

Nhàđầutư
Năm 2020 kinh tế Việt Nam khép lại với thành công được đánh giá là khá ấn tượng khi giữ được mức tăng trưởng dương trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng toàn cầu, nhiều nền kinh tế lớn bị suy giảm nghiêm trọng.
NGÔ VĂN
09, Tháng 01, 2021 | 06:30

Nhàđầutư
Năm 2020 kinh tế Việt Nam khép lại với thành công được đánh giá là khá ấn tượng khi giữ được mức tăng trưởng dương trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng toàn cầu, nhiều nền kinh tế lớn bị suy giảm nghiêm trọng.

Cùng đó, thành tích xuất khẩu cũng được coi là điểm sáng khi ta đạt được thặng dư thương mại. Cuối năm cũ cũng là lúc Mỹ đặt vấn đề xem xét về cán cân thương mại giữa hai nước cho thấy vị thế của Việt Nam cũng đáng kể trong quan hệ thương mại toàn cầu. 

nhan-vien-san-xua-1129

Lượng xuất khẩu của riêng Samsung Việt Nam năm 2019 đã hơn 51 tỷ USD. (Trong ảnh: Công nhân làm việc tại nhà máy của Samsung Việt Nam)

Thực tế nếu đánh giá nền kinh tế qua chỉ tiêu thặng dư thương mại thì nước Mỹ bao năm nay nhập siêu, còn Trung Quốc liên tục xuất siêu. Trung Quốc tích luỹ được lượng USD lớn từ lợi thế xuất khẩu, còn Mỹ thì tiền Mỹ tự in. Thế nhưng nước Mỹ vẫn hùng mạnh, tiền chẳng mất giá. Quy mô GDP của Mỹ có thể bị Trung Quốc vượt qua trong vòng chục năm nữa, nhưng GDP bình quân đầu người cũng như thu nhập bình quân đầu người thì còn lâu Trung Quốc mới đuổi kịp. 

Hàn Quốc và Nhật Bản là hai nước có vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với doanh thu hàng hoá dịch vụ của gần 7.500 doanh nghiệp năm 2019 xấp xỉ 150 tỷ USD. Lượng xuất khẩu của riêng Samsung Việt Nam năm 2019 đã hơn 51 tỷ USD. Nếu các chỉ tiêu GDP và xuất khẩu là quan trọng đối với một quốc gia thì hai nước này cần phải đưa doanh nghiệp về lại trong nước. Tuy nhiên, sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc thu nhập và tích luỹ của quốc gia đó. Số các doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản đầu tư ở Việt Nam năm 2019 có khoản lãi ròng xấp xỉ 8 tỷ USD. Tiền doanh nghiệp của họ kiếm được mới làm tăng thu nhập quốc gia của họ. Thực tế giá trị đầu tư của họ phần lớn là từ lợi nhuận kiếm được với những ưu đãi tối đa của Việt Nam. Ta chuẩn bị sẵn hạ tầng và năng lượng giá rẻ, đất thuê như cho không, hy sinh môi trường, kể cả họ lãi lớn ta cũng miễn thuế, giảm thuế thì thu nhập quốc dân không có tích luỹ.  

Việt Nam đang được đánh giá là có dự trữ ngoại tệ và kim loại quý trong dân khá lớn. Nếu người dân bỏ ra tiêu dùng hoặc đầu tư kinh doanh thì mới kích thích nền kinh tế phát triển. Nhiều năm nay khi nhà đất bỗng đẩy giá lên cao, bao nhiêu dự trữ của dân bỏ ra cũng làm cho kinh tế được tính là khởi sắc và tạo nên giá trị gia tăng. Tuy nhiên, nhà nước có nguồn thu lớn từ đất thì nguồn lực của dân dành cho chi tiêu khác trong đó có đầu tư kinh doanh mỏng đi. Năm 2020 bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nhiều dự trữ của dân cũng phải bỏ ra tiêu dùng, mới giữ được cuộc sống xã hội ổn định. Ngoài ra, nền kinh tế đang phát triển việc nhập tư liệu sản xuất là rất cần thiết. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay kể cả khi kinh tế nhập siêu vẫn có ý nghĩa tích cực.

Việc đánh giá nền kinh tế phải dựa vào những phân tích tổng thể và trong từng hoàn cảnh cụ thể thì cách đánh giá là khác nhau. Không thể đơn giản khi xem xét một chỉ tiêu cứ dương là thành tích, âm là không tốt. Tăng trưởng GDP nhờ thu hút đầu tư nhưng không cân đối hài hoà giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nhà đầu tư ngay từ đầu thì thu nhập quốc gia không có tích luỹ. Ưu đãi chỗ này thì phải tăng thu chỗ khác. Trong bối cảnh khó khăn của năm 2020 mà đạt được những thành tích tăng trưởng và thặng dư xuất khẩu, cộng với kết quả thu ngân sách quá tốt là đáng khích lệ. Tuy nhiên, chính lúc này phải xem xét đánh giá các yếu tố bản chất của các kết quả đó. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển của quốc gia một cách bền vững trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 có thể còn kéo dài nhiều năm nữa.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ