Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường chỉ ra 4 định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp trung du và miền núi Bắc Bộ

Nhàđầutư
Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường khẳng định, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là khu vực có vai trò quan trọng về an ninh, quốc phòng, năng lượng, an ninh nguồn nước và môi trường của đất nước.
PHƯƠNG LINH
30, Tháng 09, 2020 | 11:45

Nhàđầutư
Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường khẳng định, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là khu vực có vai trò quan trọng về an ninh, quốc phòng, năng lượng, an ninh nguồn nước và môi trường của đất nước.

Sau hơn 7 năm triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và gần 4 năm Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017-2020, cơ cấu lại ngành nông nghiệp vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đã có chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Sáng 30/9 tại tỉnh Sơn La, Bộ NN&PTNT phối hợp UBND tỉnh Sơn La tổ chức hội nghị “Thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc”, đã đưa ra nhiều giải pháp để duy trì đà phát triển nông nghiệp vùng trong giai đoạn 2021-2025.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường khẳng định, vùng trung du miền núi Bắc Bộ là khu vực có vai trò quan trọng về an ninh, quốc phòng, năng lượng, an ninh nguồn nước và môi trường của đất nước.

IMG-1135

Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường phát biểu tại hội nghị

Theo Bộ trưởng, trong tái cơ cấu nông nghiệp, vùng cần xác định rõ 4 định hướng quan trọng là kinh tế đồi gò, phát triển sản phẩm OCOP, gắn nông nghiệp với du lịch và bản sắc dân tộc. "Đây là những cơ sở biến vùng vốn chưa giàu từng bước trở thành vùng kinh tế giàu có", Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói.

Tại hội nghị, các đại biểu nhận định, việc đổi mới tư duy chiến lược, chuyển dần sản xuất theo tín hiệu thị trường, khai thác, kết hợp lồng ghép nhiều nguồn vốn đầu tư, khơi dậy và phát huy các nguồn lực trong dân… là những yếu tố quan trọng giúp tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp trung bình của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trong giai đoạn 2013-2020 đạt bình quân 3,68%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước.

Trên cơ sở những kết quả đạt được, các đại biểu cho rằng, để duy trì đà phát triển, ngành nông nghiệp trung du và miền núi Bắc Bộ cần triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào chế biến, bảo quản nông sản; tập trung sản xuất theo hình thức hợp tác, liên kết quy mô lớn theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh xúc tiến thương mại các sản phẩm chủ lực.

IMG-1136

Hội nghị “Thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc” sáng 30/9.

Theo thống kê của Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT), giai đoạn 2013-2020, dự kiến tốc độ tăng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp của vùng đạt bình quân 3,68%/năm (cả nước đạt 2,95 %/năm). Trong nội bộ ngành nông lâm thủy sản vùng diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành, sản phẩm có dư địa lớn và giá trị gia tăng cao.

Phương thức chăn nuôi chuyển mạnh từ nhỏ lẻ, tự phát sang công nghiệp, bán công nghiệp quy mô lớn; chăn nuôi nông hộ an toàn dịch bệnh và bền vững. Vùng có 2.519 trang trại chăn nuôi, tăng 3 lần so với năm 2013; có nhiều công ty, tập đoàn lớn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành nông nghiệp các tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ còn nhiều tồn tại, hạn chế như: Cơ cấu lại ngành và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân chưa trở thành phổ biến.

Sản xuất nông nghiệp hàng hóa vẫn ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún, khó khăn trong hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch phần lớn ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp; làm cho giá trị, năng lực cạnh tranh các sản phẩm nông nghiệp vùng hạn chế.

Trong giai đoạn 2021 – 2025, các tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ đạt mục tiêu phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của vùng đạt trung bình khoảng 3,5%/năm giai đoạn 2021 – 2025. Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông lâm thủy sản được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết đạt khoảng 20%.

Tỷ lệ che phủ rừng toàn vùng đạt khoảng 54,2%. Có 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 30% đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 96%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ