Xuất khẩu thủy sản có tín hiệu khả quan

Nhàđầutư
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), tính riêng trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 808 triệu USD, cao nhất từ đầu năm tới nay.
TRANG NGUYỄN
24, Tháng 06, 2023 | 06:45

Nhàđầutư
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), tính riêng trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 808 triệu USD, cao nhất từ đầu năm tới nay.

Theo số liệu báo cáo vừa được Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) công bố, xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2023 thấp hơn 29% so với cùng kỳ năm 2022.

Tuy nhiên, nếu tính riêng trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 808 triệu USD, cao nhất từ đầu năm tới nay. 

Theo đó, các mặt hàng chủ lực đang giảm dần mức độ sụt giảm so với cùng kỳ, xuất sang các thị trường chủ lực (Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) đạt doanh số cao nhất từ đầu năm đến nay. Một số loại cá biển ghi nhận tăng trưởng dương như cá cơm (53%), cá nục (14%), cá chỉ vàng (20%), phần nào làm bệ đỡ cho những mặt hàng chủ lực bị giảm mạnh 10-40% trong 5 tháng qua.

2711thuysan1

Chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: TTXVN.

Theo VASEP, nguyên nhân lớn nhất khiến cho sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản từ đầu năm đến nay giảm là nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường lớn lao dốc. Mặt khác, ở bên ngoài, Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với các nước sản xuất khác về nguồn cung và giá mà Ecuador và Ấn Độ là điển hình; còn bên trong, sức chịu đựng của bà con ngư dân, doanh nghiệp đang suy yếu.

Những biến động về cung – cầu xuất phát từ căn nguyên là chiến tranh và lạm phát, đến nay chưa có tín hiệu khả quan, nên việc dự báo về thị trường cũng thiếu cơ sở và độ chắc chắn.

Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều doanh nghiệp thủy sản, từ nay tới cuối năm, thị trường tiêu thụ thủy sản khó có thể phục hồi, hoặc nếu có thì sẽ phục hồi chậm.

Theo VASEP, nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp thủy sản hiện nay là chi phí đầu vào cao, giá bán thấp, nông dân và doanh nghiệp nuôi bỏ ao, sẽ dẫn đến hệ lụy là khi thị trường hồi phục thì không còn nguyên liệu để chế biến nhập khẩu, và lại một lần nữa thủy sản Việt lại mất vị thế trước các nước khác. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn ngành thủy sản cần các cấp, ngành và các thành phần trong chuỗi cung ứng cùng chung tay tìm giải pháp để vượt qua giai đoạn khó khăn của năm 2023-2024 này”, báo cáo của VASEP nhấn mạnh.

VASEP cho biết ở một số thị trường lớn như Mỹ, EU, ngoài việc trông đợi tình hình kinh tế và lạm phát có chiều hướng tích cực hơn, thì vấn đề lớn là phải giải quyết được lượng tồn kho. Năm 2022 những thị trường này đã nhập khẩu ồ ạt, chưa kịp tiêu thụ đã gặp ngay cú sốc lạm phát, nên hàng tồn nhiều, giá bán hạ.

Bên cạnh đó, cơn lốc hàng giá rẻ của các nước khác như Ecuador và Ấn Độ gần như lấn át sản phẩm của Việt Nam tại những quốc gia này, nhất là mặt hàng tôm – sản phẩm chủ lực của chúng ta. Do vậy, tín hiệu thị trường không mấy khả quan trong ngắn hạn.

Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc cũng bị sụt giảm nhu cầu vì lạm phát, nhưng không giảm sâu như hai thị trường trên. Nhiều doanh nghiệp vẫn nhìn thấy ở 2 thị trường này điểm sáng lạc quan, đó là vị trí thủ lĩnh của hàng giá trị gia tăng Việt Nam không bị cạnh tranh bởi các nước khác. Vì thế, chỉ cần lạm phát dần ổn định, xuất khẩu sang 2 thị trường này sẽ hồi phục nhanh hơn, bù đắp cho những thị trường còn lại.

Với Trung Quốc, sau khi nước này mở cửa lại sau Covid, sự hồi phục của thị trường này vẫn ì ạch, thậm chí xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang đây bị sụt giảm gần 30%.

Các doanh nghiệp trong ngành đang xác định thời gian này là lúc để rà soát chi phí sản xuất, giữ ổn định số lượng lao động, không mở rộng đầu tư. Doanh nghiệp cũng đang dành thời gian nghiên cứu các sản phẩm mới phù hợp với bối cảnh hậu Covid-19 và lạm phát cao.

Theo VASEP, nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp thủy sản hiện nay là chi phí đầu vào cao, giá bán thấp, nông dân và doanh nghiệp nuôi bỏ ao, sẽ dẫn đến hệ lụy là khi thị trường hồi phục thì không còn nguyên liệu để chế biến nhập khẩu, và lại một lần nữa thủy sản Việt lại mất vị thế trước các nước khác.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ