Tự động hóa gây hậu quả thế nào tới kinh tế thế giới?

Nhàđầutư
Các lý thuyết kinh tế không cung cấp một câu trả lời rõ ràng về tác động chung của tiến bộ công nghệ tới việc làm. Và ngay cả nếu tự động hóa thường mang lại lợi ích về mặt dài hạn, các nhà hoạch định chính sách không nên bỏ qua những tác dụng tiêu cực về mặt ngắn hạn. 
TIỆP NGUYỄN
21, Tháng 09, 2019 | 08:18

Nhàđầutư
Các lý thuyết kinh tế không cung cấp một câu trả lời rõ ràng về tác động chung của tiến bộ công nghệ tới việc làm. Và ngay cả nếu tự động hóa thường mang lại lợi ích về mặt dài hạn, các nhà hoạch định chính sách không nên bỏ qua những tác dụng tiêu cực về mặt ngắn hạn. 

Trong khi Brexit đang chiếm những dòng tít lớn trên báo chí tại Anh quốc và nhiều nơi khác, cuộc hành quân thầm lặng của tiến trình tự động hóa vẫn tiếp tục. Hầu hết các nhà kinh tế học đều coi xu hướng này là tốt đẹp: Họ nói công nghệ có thể làm mất đi nhiều việc làm trong ngắn hạn, nhưng sẽ tạo ra nhiều công việc mới và tốt hơn về dài hạn. 

Việc mất đi các rất rõ ràng và trực tiếp: Một công ty đưa băng chuyền tự động vào làm việc, tự động hóa khâu "check-out" trong siêu thị hay hệ thống giao hàng, giữ lại 1/10 lực lượng lao động như người giám sát và sa thải số còn lại. Nhưng những gì xảy ra sau đó rất mờ mịt. 

Lý luận kinh tế tiêu chuẩn là những lao động bị ảnh hưởng bởi tự động hóa ban đầu sẽ mất việc làm, nhưng sau đó thì tổng dân số sẽ được đền bù. Ví dụ, hai nhà kinh tế được giải Nobel, Christopher Pissarides và Jaques Bughin của Học viện McKinsey cho rằng năng suất cao hơn nhờ tự động hóa "kéo theo tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, chi tiêu tiêu dùng nhiều hơn, gia tăng mức cầu về lao động, và nhờ đó tạo ra nhiều việc làm hơn". 

01-AI-pissarides-hughin-combo

Hai nhà kinh tế học được giải Nobel, Christopher Pissarides (trái) và Jaques Bughin, cho rằng tự động hóa "kéo theo tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, chi tiêu tiêu dùng nhiều hơn, gia tăng mức cầu về lao động, và nhờ đó tạo ra nhiều việc làm hơn".

Nhưng lý thuyết về sự đền bù này rất trừu tượng. Trước hết, chúng ta cần phân biệt giữa sáng tạo "tiết kiệm nhân lực" và "tăng sức lao động". Sáng tạo về sản phẩm như việc ra mắt ôtô hay điện thoại di động là tăng sức lao động. Ngược lại, sáng tạo về quy trình, hay việc ra mắt các phương thức cải tiến sản xuất là tiết kiệm nhân lực, bởi điều này làm cho các công ty có thể sản xuất cùng một số lượng sản phẩm hay dịch vụ với số ít lao động hơn. 

Thực vậy, những công việc mới được tạo ra bằng sáng tạo sản phẩm có thể được bù đắp lại bởi một "tác động thay thế", khi sự thành công của một sản phẩm mới khiến những người lao động đang sản xuất sản phẩm cũ trở nên dư thừa. Nhưng thách thức lớn nhất tới từ sáng tạo về quy trình, bởi nó chỉ làm mất việc làm mà không tạo ra việc làm mới. 

Ở những nơi mà sáng tạo về quy trình đang thống trị, chỉ có những cơ chế đền bù có thể giúp ngăn chặn việc tăng thất nghiệp, điều mà nhà kinh tế học Anh quốc David Ricardo gọi là "sự dư thừa" dân số. 

Có rất nhiều những cơ chế như vậy. Đầu tiên, gia tăng về lợi nhuận sẽ dẫn tới việc đầu tư tiếp vào công nghệ mới và theo đó là những sản phẩm mới. Thêm nữa, cạnh tranh giữa các công ty sẽ dẫn tới một sự giảm chung về mặt giá cả, tăng cầu cho sản phẩm và tiếp theo là lao động.

Cuối cùng, việc giảm tiền lương gây ra bởi những lao động thất nghiệp bị ảnh hưởng bởi công nghệ sẽ giúp tăng cầu cho thị trường lao động (khi nhân công giá rẻ hơn) - tạo ra sự quay lại với phương pháp sản xuất sử dụng nhiều lao động hơn, tiếp thu thêm nhiều lao động dư thừa. 

Thời gian để những cơ chế đền bù này có tác dụng sẽ phụ thuộc vào việc nguồn vốn và lao động dịch chuyển có dễ dàng không giữa các loại nghề nghiệp và các khu vực. Việc đưa ra công nghệ tiết kiệm nhân lực sẽ đem lại kết quả là giá thành thấp hơn, nhưng cũng sẽ gây giảm sự tiêu dùng của những lao động bị trở thành dư thừa. 

02-recession-getty

Đang có lo ngại rằng suy thoái sẽ xảy ra trên toàn cầu.

Tiếp theo sẽ là câu hỏi, hiệu ứng nào sẽ xảy ra nhanh hơn. Những nhà kinh tế học theo trường phái Keynes chỉ rõ sự giảm mức cầu với sản phẩm từ thất nghiệp sẽ đi trước, sau đó có ảnh hưởng lớn hơn, còn hiệu ứng của việc giá thành giảm do tự động hóa sẽ đến sau. Điều này sẽ dẫn đến gia tăng thất nghiệp ít nhất là trong ngắn hạn. 

Hơn nữa, dù những việc làm mất đi đó chỉ là hiện tượng ngắn hạn, hậu quả dồn lại của một loạt các sáng tạo tiết kiệm nhân lực qua thời gian sẽ tạo ra thất nghiệp dài hạn. Thêm nữa, một cơ chế về việc điều chỉnh giá có ảnh hưởng thường xảy ra trong cạnh tranh. Nhưng trong thị trường có hành vi độc quyền của nhóm bán, một công ty sẽ sử dụng chi phí tiết kiệm được của mình (trong trường hợp này là tiết kiệm nhân lực) để tăng lợi nhuận hơn là giảm giá bán. 

Những nghiên cứu như vậy củng cố cho quan điểm đương đại rằng lợi nhuận của tự động hóa là dài hạn, với "sự dư thừa" được cho là sẽ tăng lên trong "thời kỳ quá độ". Nhưng khi thời kỳ quá độ có thể kéo dài tới vài thập kỷ, như trong một báo cáo của Học viện McKinsey gần đây thừa nhận, khó có thể ngạc nhiên khi những người lao động hoài nghi những lý lẽ về sự đền bù. 

Karl Marx chỉ rõ không có tiến trình đền bù nào như vậy tồn tại, ngay cả trong ngắn hay dài hạn. Câu chuyện ở đây là sẽ không có kết thúc tốt đẹp cho những người lao động - ít nhất thì là dưới chủ nghĩa tư bản. 

Marx nói rằng cạnh tranh buộc các công ty riêng lẻ phải đầu tư nhiều hết mức có thể lợi nhuận của họ vào việc "tiết kiệm nhân lực", "giảm chi phí" bằng máy móc. Nhưng sự gia tăng cơ khí hóa không làm tăng lợi nhuận cho các nhà tư bản trong một lúc. Người hành động đầu tiên sẽ hưởng lợi thế tạm thời bằng "chi phí trung bình giảm đột ngột", và tiêu diệt các công ty yếu hơn trong tiến trình này. Nhưng cạnh tranh sẽ lan truyền công nghệ mới và nhanh chóng loại bỏ siêu lợi nhuận tạm thời. 

Marx chỉ ra việc khôi phục lại tỷ lệ lợi nhuận đòi hỏi gia tăng lớn "một đội quân dự bị thất nghiệp". Ông viết, cơ khí hóa "vứt người lao động ra vỉa hè". Với Marx, thất nghiệp về cơ bản mang tính kỹ thuật trong bản chất. Và mặc dù đội quân dự bị này tạm thời nằm chung trong lực lượng lao động ở thời kỳ bùng nổ lợi nhuận cao, vẫn tiếp tục tồn tại việc sẽ dẫn tới sự bần cùng hóa tăng cao chưa từng có trong dài hạn. 

03-Karl_Marx_001

Theo Marx, cơ khí hóa sẽ "vứt người lao động ra vỉa hè".

Với Marx, vì thế, những sự kiện liên tiếp diễn ra trong dài hạn sẽ đối nghịch với cái nhìn hiện tại: cơ khí hóa tạo ra cơn sốt thịnh vượng trong ngắn hạn nhưng với cái giá là sự sụt giảm về mặt dài hạn. 

Từ lâu, những hiệu ứng sinh ra của việc thay đổi công nghệ đã là chủ đề đặc biệt trong bàn thảo giữa các nhà kinh tế học. Trong cuốn sách viết năm 1932 nhan đề "Lý thuyết về tiền lương", John Hicks đã phát triển ý tưởng về đổi mới cảm sinh (induced innovation).

Ông tranh luận rằng, mức lương cao hơn đe dọa tỷ lệ lợi nhuận sẽ đẩy những nhà kinh doanh phải tiết kiệm sử dụng lao động bởi yếu tố này trong sản xuất đang trở nên đắt đỏ hơn. Việc tự động hóa trong nền kinh tế không phải là kết quả đơn giản giống như máy tính tăng sức mạnh theo định luật Moore. Nó dựa vào sự thay đổi chi phí liên quan về lao động và vốn. 

Có nhiều tranh luận phức tạp mang tính kỹ thuật. Nhưng lý thuyết kinh tế hiển nhiên chưa cung cấp được một câu trả lời rõ ràng về hiệu ứng dài hạn của những tiến bộ kỹ thuật đối với người lao động. Kết luật tốt nhất chúng ta có thể đưa ra là tác động sẽ dựa vào cán cân sáng tạo giữa "sản phẩm" và "quy trình sản xuất", và vào những yếu tố khác như trạng thái của mức cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường và cán cân sức mạnh giữa tư bản và lao động.

Đó là tất cả những lĩnh vực quan trọng mà các chính phủ có thể can thiệp. Ngay cả nếu tự động hóa thường mang lại lợi ích về mặt dài hạn, các nhà hoạch định chính sách không nên bỏ qua những tác dụng tiêu cực về mặt ngắn hạn. Khoảng thời điểm ngắn, sau cùng thường là lúc lịch sử có những biến động không ngờ.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ