Trung Quốc tăng nhập khẩu cá tra Việt Nam trong những tháng cuối năm

Nhàđầutư
Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến thủy sản Việt Nam (VASEP), những ngày gần đây, một số doanh nghiệp nhận được khá nhiều nhu cầu đặt hàng xuất khẩu từ thị trường Trung Quốc nhất là cá tra. Đây được cho là tín hiệu đáng mừng cho ngành thủy sản trong những tháng cuối năm.
THIÊN KỲ
08, Tháng 09, 2023 | 05:49

Nhàđầutư
Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến thủy sản Việt Nam (VASEP), những ngày gần đây, một số doanh nghiệp nhận được khá nhiều nhu cầu đặt hàng xuất khẩu từ thị trường Trung Quốc nhất là cá tra. Đây được cho là tín hiệu đáng mừng cho ngành thủy sản trong những tháng cuối năm.

z4671547788177_7e14fad834b899c200288f95f8a863c5

Trung Quốc tăng nhập khẩu cá tra vào dịp cuối năm. Ảnh: Thiên Kỳ

Đại diện VASEP cho biết, xuất khẩu thủy sản trong 7 tháng vào những tín hiệu hồi phục từ thị trường Trung Quốc, khi trong tháng 7/2023 xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt gần 180 triệu USD, tăng 45% so với cùng kỳ. Các thị trường lớn khác cũng được dự báo khả quan hơn trong dịp cuối năm.

Từ số liệu trên cho thấy những dấu hiệu khởi sắc của hoạt động xuất khẩu hàng hóa, kỳ vọng kết quả khả quan cho chặng đường còn lại của năm 2023.

"Bảy tháng đầu năm nay, diện tích nuôi cá tra đạt 3.370 ha, sản lượng đạt 922 nghìn tấn. Xuất khẩu cá tra tính đến hết tháng 7/2023 đạt hơn 1 tỷ USD, giảm 37% so với cùng kỳ năm 2022. Doanh số xuất khẩu cá tra sang các thị trường so với cùng kỳ năm ngoái đều giảm từ 9% - 61%", VASEP cho biết.

Bà Lê Hằng, Giám đốc truyền thông VASEP nhận định, hiện thị trường Mỹ không mấy khả quan đối với xuất khẩu cá tra do những biến động về kinh tế, lạm phát ở mức cao, lượng tồn kho cao khiến lượng xuất khẩu năm 2023 giảm. Giá xuất khẩu cá tra sang cường quốc này dao động từ 2,97 - 3,1 USD/kg, giảm từ 25% - 37% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo đó trong 6 tháng đầu năm nay, Mỹ nhập khẩu hơn 43 nghìn tấn cá tra, giảm 50% so với cùng kỳ năm 2022. Việt Nam vẫn là nhà cung cấp cá tra hàng đầu cho Mỹ. Ngoài ra Mỹ cũng nhập khẩu cá tra từ Trung Quốc với khoảng 3,3 nghìn tấn, chiếm 8%.

Thị trường EU cũng không được đánh giá cao do lạm phát và suy thoái. Top 3 thị trường nhập khẩu nhiều nhất cá tra Việt Nam trong khối EU là Hà Lan, Bỉ, Đức.

Chính sự sụt giảm của các thị trường truyền thống này đã khiến lượng đơn hàng của cá tra Việt Nam nói riêng và thủy sản nói chung giảm mạnh. Vì thế, Trung Quốc là thị trường được kỳ vọng sẽ tăng nhập khẩu cá tra Việt Nam.

Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, tính đến hết tháng 6/2023, khối lượng NK cá tra của Trung Quốc giảm 43%, giá trị giảm 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Top các địa phương tiêu thụ nhiều nhất cá tra tại quốc gia tỷ dân này là: Quảng Đông (78 triệu USD), Sơn Đông (26 triệu USD), Thượng Hải (17 triệu USD), Thiên Tân (12 triệu USD),...

"Tuy nhiên, nhu cầu thực sự tại thị trường này chưa tăng mạnh do những khó khăn về kinh tế, tình trạng thất nghiệp, thu nhập của người dân sụt giảm. Tuy nhiên, mức độ sụt giảm đang được thu hẹp dần. Do đó, có thể kỳ vọng vào những tháng cuối năm khi nền kinh tế khả quan dần và người dân đã thích nghi hoàn toàn với bối cảnh mới. Giá trung bình xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm giảm từ 8% - 14% so với cùng kỳ năm 2022, dao động ở mức 1,9 - 2,35 USD/kg", bà Lê Hằng cho hay. 

Đại diện VASEP kỳ vọng nhu cầu thị trường Trung Quốc sẽ hồi phục những tháng cuối năm và dự báo giá xuất khẩu nửa cuối năm có thể sẽ tăng cao hơn so với nửa đầu năm nay. Dự đoán đến hết năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra của Việt Nam có thể đạt 1,7 tỷ USD, giảm 30% so với năm 2022. 

Thông tin từ VASEP còn cho thấy hiện nay, kim ngạch xuất khẩu cá tra Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông đã có tín hiệu tích cực hơn khi khoảng cách sụt giảm đã dần thu hẹp. Nếu như tháng 4/2023 giảm 66%, tháng 5/2023 giảm 30% so với cùng kỳ năm 2022 thì tháng 6 và tháng 7 mức giảm này thu hẹp còn 15%.

Đáng nói hơn, nửa cuối năm 2023, tỉ lệ sụt giảm sẽ thu hẹp dần so với cùng kỳ do thị trường bước vào mùa đặt hàng cho tiêu thụ cuối năm và các dịp lễ hội lớn.

Ông Willemink Arno, Giám đốc vận hành De Heus Việt Nam nhận định, mức tiêu thụ cá thịt trắng, trong đó có cá tra của Việt Nam trên thị trường thế giới khá cao, nhất là ở nước có thu nhập cao, như ở Mỹ, mức tiêu thụ khoảng 22 kg/người/năm. Trong khi đó, ở những nước thu nhập thấp và trung bình lại có mức tiêu thụ cá thịt trắng thấp hơn. Như vậy, dư địa tiêu thụ cá tra của Việt Nam tại những thị trường có thu thập thấp còn rất lớn. 

Điều này mở ra cho ngành cá tra Việt Nam một hướng đi mới khi nhắm đến các thị trường nhỏ và nhu cầu cao như Trung Đông, châu Phi...

Các chuyên gia đầu ngành nhận định, đây cũng là cách để ngành bớt phụ thuộc đơn hàng vào một vài thị trường truyền thống như hiện nay.

Chia sẻ về chiến lược lâu dài cho cá tra Việt Nam, ông Ong Hàng Văn, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản Trường Giang cho biết: "Để nâng cao hình ảnh cho con cá tra của Việt Nam ra các thị trường trọng điểm, quảng bá và tạo ấn tượng tốt về một loại cá được nuôi dưỡng ở môi trường sạch, được nhà nước kiểm soát An toàn vệ sinh, thân thiện với môi trường xung quanh bằng các chứng nhận quốc tế, nơi mà người công nhân được đảm bảo về quyền lợi, các sản phẩm cá tra tốt cho sức khỏe".

Theo ông Văn, từ nay đến cuối năm, thách thức lớn nhất để hồi phục xuất khẩu là giảm lượng tồn kho bằng cách giảm sản lượng mùa vụ tiếp theo.

Mục tiêu chung là nuôi giảm mật độ để tránh được dịch bệnh, tăng trọng nhanh hơn, hệ số FCR (hệ số chuyển đổi thức ăn trong nuôi cá tra và tôm) sẽ thấp và giá thành sẽ giảm.

Bên cạnh đó, cần kéo giá thành nguyên liệu cá tra bằng những năm trước ở mức 1 USD/kg (hiện nay là 1,2 USD/kg), giảm giá thành 20% để có điều kiện cạnh tranh với các loại cá thịt trắng khác trên thế giới.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ