TP.HCM lại vắng bóng phân khúc trung cấp và bình dân

Nhàđầutư
Trong tháng 4, nguồn cung mới căn hộ tại TP.HCM chỉ ghi nhận phân khúc căn hộ cao cấp. Trong khi đó, phân khúc trung cấp và bình dân không có nguồn cung mới.
VŨ PHẠM
10, Tháng 05, 2023 | 11:53

Nhàđầutư
Trong tháng 4, nguồn cung mới căn hộ tại TP.HCM chỉ ghi nhận phân khúc căn hộ cao cấp. Trong khi đó, phân khúc trung cấp và bình dân không có nguồn cung mới.

Báo cáo thị trường bất động sản (BĐS) TP.HCM và vùng phụ cận trong tháng 4 của DKRA Group cho thấy, toàn thị trường có 5 dự án (1 dự án mới, 4 dự án giai đoạn tiếp theo) với 568 căn hộ, giảm 77% so với cùng kỳ. Tỷ lệ tiêu thụ đạt 59%, tương đương với 333 căn, giảm 84% so với cùng kỳ.

Nguồn cung mới chủ yếu tập trung tại TP.HCM (61%) và Bình Dương (39%). Các địa phương như Đồng Nai, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh không có nguồn cung mới.

DKRA đánh giá, sức cầu chung thị trường giảm mạnh so với cùng kỳ, lượng tiêu thụ tập trung ở 1 dự án mở bán tại khu Đông TP.HCM. Trong khi các dự án tại Bình Dương chỉ hấp thụ được 16-21% giỏ hàng mở bán.

Empty

Thị trường BĐS TP.HCM không ghi nhận nguồn cung mới phân khúc căn hộ trung cấp và bình dân trong tháng 4. Ảnh: Vũ Phạm

Đáng chú ý, phân khúc căn hộ cao cấp tiếp tục "chiếm sóng" thị trường, tập trung ở khu Đông TP.HCM. Thị trường không ghi nhận nguồn cung mới phân khúc trung cấp và bình dân. Còn tại Bình Dương chủ yếu là hạng trung cấp, bình dân, tập trung ở TP. Thuận An, TP. Dĩ An và TP. Thủ Dầu Một.

Chính sách chiết khấu thanh toán nhanh tiếp tục được nhiều chủ ầu tư áp dụng, cục bộ có dự án ghi nhận mức chiết khấu lên đến trên 52% giá bán niêm yết căn hộ.

Mặt bằng giá bán sơ cấp tiếp tục neo ở mức cao trước áp lực các chi phí đầu vào, lãi vay, pháp lý... Đà giảm trên thị trường thứ cấp chững lại với thanh khoản phục hồi nhẹ trước thông tin các chính sách gỡ vướng, hạ nhiệt lãi suất ban hành trong tháng.

Tại TP.HCM, giá bán sơ cấp thấp nhất đã ghi nhận ở mức 67,1 triệu đồng/m2, cao nhất là 76,7 triệu đồng/m2. Tại Bình Dương, giá bán sơ cấp thấp nhất là 37 triệu đồng/m2, cao nhất là 46,8 triệu đồng/m2.

Chia sẻ với Nhadautu.vn, Giám đốc doanh nghiệp BĐS ở TP.HCM cho rằng, doanh nghiệp đang phải trả lãi ngân hàng cao, gánh đủ chi phí nên không thể bán các sản phẩm giá thấp. Còn người mua lại chỉ tìm sản phẩm giá rẻ, không sẵn sàng xuống tiền cho những sản phẩm giá cao.

Trong quý I vừa qua, thị trường BĐS gần như không có giao dịch, cung không gặp cầu. Cho đến nay, nhờ một số chính sách hỗ trợ tài chính nên bắt đầu có khách hàng quay lại tìm hiểu nhưng tỷ lệ "xuống tiền" vẫn rất thấp vì tâm lý chờ chính sách hỗ trợ thiết thực hơn.

Xuất hiện nhiều giao dịch "bán hòa vốn"

Trong khi đó, đối với phân khúc nhà phố, biệt thự, toàn thị trường có 4 dự án (1 dự án mới, 3 dự án giai đoạn tiếp theo) với 51 căn, giảm 97% so với cùng kỳ. Tỷ lệ tiêu thụ chỉ đạt 6%, tương đương 3 căn, giảm đến 99,7%.

Nguồn cung tập trung chủ yếu tại Long An (49%), Bình Dương (39,2%) và TP.HCM (11,8%).

Theo DKRA, sức cầu thị trường ở mức rất thấp chỉ tương đương 0,3% so với tháng 4/2022, trong đó 100% lượng tiêu thụ tập trung tại Long An với 25 căn. Tại TP.HCM và Bình Dương không phát sinh giao dịch trong tháng.

Dự án mở bán trong tháng 4 có mức giá giảm trung bình 8-10% so với lần mở bán trước đó (khoảng 6 tháng). Chính sách chiết khấu lên đến 20%, cam kết thuê lại trong vòng 12 tháng được chủ đầu tư ưu tiên áp dụng nhầm kích cầu thị trường.

Mặt bằng giá thứ cấp không có nhiều khởi sắc so với tháng 3, thị trường vẫn xuất hiện phần lớn các giao dịch “bán hòa vốn, cắt giảm lợi nhuận” ở nhóm các nhà đầu tư có sử dụng vốn vay ngân hàng.

Tại TP.HCM, giá bán sơ cấp thấp nhất là 13,9 tỷ đồng/căn, cao nhất là 50,1 tỷ đồng/căn; Long An thấp nhất là 3,8 tỷ đồng/căn, cao nhất là 7,7 tỷ đồng/căn; Bình Dương thấp nhất là 1,5 tỷ đồng/căn; cao nhất là 1,8 tỷ đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ