Nghệ An cần sớm nghiên cứu đầu tư trung tâm logistic, khu hậu cần sau cảng

Nhàđầutư
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật đã có buổi làm việc với UBND tỉnh Nghệ An về tình hình thực hiện Quy hoạch cảng biển Nghệ An.
SỸ TÂN
14, Tháng 03, 2021 | 15:48

Nhàđầutư
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật đã có buổi làm việc với UBND tỉnh Nghệ An về tình hình thực hiện Quy hoạch cảng biển Nghệ An.

Cảng biển Nghệ An là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực, gồm các khu bến Nam Cửa Lò, Bắc Cửa Lò và khu bến cảng chuyên dùng Đông Hồi theo Quyết định số 2368/QĐ-BGTVT ngày 29/7/2016 của Bộ GTVT về phê duyệt quy hoạch chi tiết Nhóm cảng biển Bắc Trung bộ giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 3699/QĐ-BGTVT ngày 29/12/2017 phê duyệt quy hoạch chi tết khu bến cảng Cửa Lò, tỉnh Nghệ An giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và sau năm 2030.

Theo đó, cảng biển Nghệ An là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực loại 1, bao gồm các khu bến cảng Nam Cửa Lò, Bắc Cửa Lò và khu cảng chuyên dụng Đông Hồi. Các bến cảng chuyên dụng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải tối đa 70.000 - 100.000 tấn đi quốc tế.

uri_mh1615692813477

Nghệ An đã đề xuất với Bộ GTVT sớm triển khai giai đoạn 2 dự án nâng cấp luồng và vùng quay tàu vào cảng cho các tàu 30 nghìn tấn và nghiên cứu triển khai cải tạo luồng cho tàu 50 nghìn tấn ra vào trong tương lai

Đến năm 2030 và sau 2030, năng lực thiết kế bốc xếp của Cụm cảng Cửa Lò từ 23 - 29 triệu tấn. Trong đó bao gồm các bến cảng tổng hợp, container đang hoạt động, đạt 2,5 triệu tấn/năm vào năm 2030 và 4,5 triệu tấn/năm sau năm 2030.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển cảng biển giai đoạn 2021 - 2030 có tầm nhìn đến 2050, tỉnh Nghệ An đã đề xuất với Bộ GTVT sớm triển khai giai đoạn 2 dự án nâng cấp luồng và vùng quay tàu vào cảng cho các tàu 30 nghìn tấn. Đồng thời nghiên cứu triển khai cải tạo luồng cho tàu 50 nghìn tấn ra vào trong tương lai. Đề nghị nâng cấp xây dựng đê chắn sóng phía Bắc cảng Cửa Lò dài 1,1 km.

Tỉnh Nghệ An cũng kiến nghị điều chỉnh quy hoạch kéo dài luồng Cảng Cửa Lò về phía thượng lưu đến đập ba ra Nghi Quang khoảng 1 km để các tàu có thể ra vào tránh trú bão. Đồng thời, đầu tư xây dựng các cảng cạn góp phần phát triển lĩnh vực logictics.

Tại cuộc làm việc vào chiều 12/3, đại diện đơn vị tư vấn cho biết, các cảng biển trên địa bàn tỉnh Nghệ An gồm nhóm cảng khu vực phía Nam Cửa Lò, phía Bắc Cửa Lò, Khu bến Đông Hồi và Khu Bến Thủy, Cửa Hội dù đã được đầu tư, nạo vét một số lần nhưng do độ sâu hạn chế và luồng lạch bị bồi lắng nên năng lực ra vào cho tàu rất hạn chế.

Tình trạng tàu cá chen lấn vẫn còn xảy ra. Chính vì vậy, đơn vị tư vấn đề xuất mở rộng quy mô các bến cảng đã được đầu tư, mở rộng luồng tuyến để tàu công suất lớn hơn có thể vào các cảng Cửa Lò hay một số cảng chuyên dùng, cần tiếp tục rà soát để bổ sung khả năng hậu cần sau cảng, kết nối hạ tầng cảng với mạng lưới giao thông đường bộ, kết nối với các cảng khu vực như Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bổ sung thêm diện tích trung chuyển logistic.

Theo đánh giá, hạ tầng cảng biển Nghệ An cơ bản được đầu tư, khai thác theo đúng quy hoạch được duyệt. Các bến cảng mới được xây dựng cơ bản theo đúng vị trí trong quy hoạch, được đầu tư trang thiết bị đồng bộ tương ứng với loại hàng khai thác. Tuyến bến, khu nước cảng được đầu tư khai thác đúng trong phạm vi quy hoạch, năng lực và tổ chức khai thác cảng có hiệu quả như bến cảng Vissai, xăng dầu DKC.

Hạ tầng luồng hàng hải khu vực Cửa Lò, khu vực trên sông Lam về cơ bản đáp ứng các yêu cầu tiếp nhận tàu tại các khu bến chính (luồng vào Cảng xăng dầu DKC, luồng vào Cảng Vissai, luồng vào Cảng Bến Thủy). Hạ tầng đê chắn cát tại khu vực Cửa Lò (đê phía Bắc dài 375m, đê phía Nam dài 1.003m) đảm bảo yêu cầu cơ bản về bảo vệ luồng tàu và công trình bến cảng tại đây. Đê chắn sóng tại khu bến nội địa Vissai (hoàn thành đê số 1 dài 400m năm 2020, đang xây dựng đê số 2 dài 660m). Hạ tầng giao thông đường bộ kết nối đến khu vực Cửa Lò tương đối tốt (gần Quốc lộ 1A), tuyến đường kết nối từ Quốc lộ 46 vào bến số 5, số 6 theo quy hoạch vẫn chưa được đầu tư xây dựng.

CangbienNgheAn_20210312192539

Hiện chỉ có cảng Vissai dài 200m có thể tiếp nhận phục vụ cho tàu 70 nghìn tấn.   Ảnh: Internet 

Tuy nhiên việc đầu tư hạ tầng bến cảng tại khu vực Nghệ An còn nhiều hạn chế, khả năng thu hút đầu tư vào Khu Kinh tế Đông Nam nói chung và quy hoạch cảng biển nói riêng chưa cao. Bên cạnh đó, bến cảng tổng hợp và container phía Bắc Cửa Lò đã khởi công từ năm 2010 đến nay vẫn chưa xây dựng. Vì vậy trong thời gian tới Nghệ An cần khuyến khích, tạo điều kiện để triển khai dự án theo quy hoạch được duyệt cũng như kêu gọi đầu tư hạ tầng cảng biển dùng chung (luồng tàu, đê chắn sóng) tại Đông Hồi.

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật yêu cầu tỉnh Nghệ An giữ nguyên quy hoạch cảng biển Đông Hồi như đã được phê duyệt. Thống nhất phương án điều chỉnh quy hoạch kéo dài luồng Cảng Cửa Lò về phía thượng lưu đến đập ba ra Nghi Quang khoảng 1 km để các tàu có thể ra vào tránh trú bão. Đồng thời sớm nâng cấp mở rộng luồng Cửa Lò, khu quay trở và công trình bảo vệ thiết yếu đáp ứng cho tàu có trọng tải đến 30.000 DWT ra vào các bến cảng thuận lợi.

Sớm nghiên cứu đầu tư trung tâm logistic, khu hậu cần sau cảng để hỗ trợ luân chuyển hàng hóa đa phương thức và hoàn thiện kết nối hạ tầng với cảng biển theo quy hoạch. Đối với Khu bến Đông Hồi, cần tập trung đầu tư xây dựng các bến cảng phục vụ trực tiếp các cơ sở công nghiệp tại Đông Hồi, các khu công nghiệp khác vùng Bắc, Tây Bắc Nghệ An và các vùng phụ cận. Nghệ An cần kêu gọi các nhà đầu tư lớn để xây dựng các cảng biển phù hợp

Bên cạnh đó, Thứ trưởng Nguyễn Nhật yêu cầu Cục hàng hải tiếp thu các ý kiến của tỉnh Nghệ An để hoàn thiện quy hoạch cảng biển chung, trình Chính phủ phê duyệt trong thời gian tới. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ