Honda nâng mức triển vọng lợi nhuận cả năm bất chấp tình trạng thiếu chip ô tô

Nhàđầutư
Honda Motor đã nâng mức triển vọng lợi nhuận hoạt động cho năm tài chính hiện tại, trong bối cảnh doanh số bán hàng có dấu hiệu tiến triển bất chấp tình trạng thiếu chip toàn cầu vốn đang làm gián đoạn chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp ô tô.
THANH TRẦN
10, Tháng 02, 2021 | 15:08

Nhàđầutư
Honda Motor đã nâng mức triển vọng lợi nhuận hoạt động cho năm tài chính hiện tại, trong bối cảnh doanh số bán hàng có dấu hiệu tiến triển bất chấp tình trạng thiếu chip toàn cầu vốn đang làm gián đoạn chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp ô tô.

urn-publicid-ap-org-1d447024abd442a5bd4c09f917de2ee8Japan_Honda_Earns_73476-780x535

Honda nâng mức triển vọng lợi nhuận cả năm bất chấp tình trạng thiếu chip ô tô.  Ảnh: Internet

Nhà sản xuất ô tô của Nhật Bản đang nhắm mục tiêu lợi nhuận hoạt động là 520 tỷ yên (5 tỷ USD) trong năm tài chính hiện tại, cao hơn so với dự báo trước đó là 420 tỷ yên, Honda cho biết trong một hồ sơ trao đổi.

Theo dữ liệu của Bloomberg, mức lợi nhuận mục tiêu của Honda thậm chí còn cao hơn so với dự đoán trung bình của các nhà phân tích là 469 tỷ yên.

Triển vọng tốt hơn mong đợi được Honda đưa ra trong bối cảnh tình trạng thiếu chip trên toàn cầu đang khiến nhiều nhà sản xuất ô tô 'đau đầu'.

Người tiêu dùng nội địa đã tăng cường mua máy tính cá nhân, máy tính bảng và trò chơi điện tử, làm cạn kiệt nguồn cung cấp chất bán dẫn cần thiết cho công nghệ cần thiết trong ô tô hiện đại.

Điều này có nguy cơ làm chậm sự phục hồi doanh số bán xe sau khi các nhà sản xuất ô tô đối mặt với sự sụt giảm do đại dịch COVID-19 gây ra.

Tatsuo Yoshida, một nhà phân tích của Bloomberg Intelligence, cho biết sự thiếu hụt chip có thể ảnh hưởng đến doanh số bán các mẫu xe mới của Honda như Vezel, Civic và MDX.

Doanh thu bán hàng của Honda trong quý IV chỉ tăng 0,6% lên 3,8 nghìn tỷ yên, trong khi lợi nhuận hoạt động tăng 67% lên 277,7 tỷ yên. Điều này chủ yếu là do hiệu quả cao hơn trong chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển cũng như kiểm soát chi phí, bất chấp những biến động tiền tệ không thuận lợi, Honda cho biết.

Doanh số bán ô tô toàn cầu của Honda trong quý IV/2020 (bao gồm cả xe tải và SUV) đã tăng 10,7% so với một năm trước, lên khoảng 1,38 triệu xe được bán ra. Doanh số bán hàng mạnh mẽ ở Trung Quốc và Nhật Bản đã giúp bù đắp sự sụt giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái ở Mỹ.

Bên cạnh đó, doanh số bán xe máy của Honda đã giảm 14,9% trong quý IV, do kết quả yếu kém ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bất chấp những kết quả kinh doanh tốt ở thị trường Ấn Độ và Pakistan.

Dù vậy, trước đó Honda cũng đã hạ mức triển vọng doanh số bán ôtô toàn cầu của hãng xuống 100.000 xe trong quý I/2021 do tình trạng thiếu hụt chất bán dẫn toàn cầu.

Honda đã điều chỉnh giảm dự báo doanh số bán xe từ đầu năm đến tháng 3/2021 xuống 4,5 triệu xe so với mức ước tính 4,6 triệu xe trước đó.

Các nhà sản xuất ôtô toàn cầu gồm Toyota Motor Corp. và Volkswagen AG đã phải chịu cảnh thiếu chip kể từ cuối năm ngoái khi hoạt động sản xuất của họ bị tạm ngừng trong thời gian ngắn, mặc dù doanh số bán ôtô nhanh chóng phục hồi tại một số thị trường lớn như Trung Quốc và Mỹ.

Phó Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Honda, Seiji Kuraishi, cho biết sự thiếu hụt chất bán dẫn đã ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất các mẫu xe chủ chốt của hãng như xe nhỏ gọn Fit ở Nhật Bản và dòng xe sedan Civic và Accord ở Mỹ.

Tuy nhiên tình hình đang có dấu hiệu tốt dần lên và dự kiến sẽ không có ảnh hưởng lớn trong năm tài chính tiếp theo.

Ông Kuraishi cũng cho biết Honda đang xem xét các chuỗi cung ứng của mình và cân nhắc tăng dự trữ phụ tùng ôtô nhằm giảm ảnh hưởng đến sản xuất ngay cả khi tình trạng thiếu hụt nguồn cung xảy ra.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ