Hàng trăm tỷ USD rót vào hydrogen mỗi năm

Nhàđầutư
Năm 2022, đã có 534 dự án sản xuất hydrogen quy mô lớn với tổng trị giá 240 tỷ USD được công bố trên toàn thế giới. Con số này dự báo còn tiếp tục tăng lên do nhiều quốc gia đang cố gắng đa dạng hóa và độc lập về nguồn năng lượng.
ĐÌNH VŨ
12, Tháng 09, 2023 | 12:19

Nhàđầutư
Năm 2022, đã có 534 dự án sản xuất hydrogen quy mô lớn với tổng trị giá 240 tỷ USD được công bố trên toàn thế giới. Con số này dự báo còn tiếp tục tăng lên do nhiều quốc gia đang cố gắng đa dạng hóa và độc lập về nguồn năng lượng.

IDS

Toạ đàm "Năng lượng mới Hydrogen/Amonia xanh - Xu hướng toàn cầu và triển vọng ngành kinh tế mới của Việt Nam". Ảnh: NT

Sáng 12/9, Viện Chiến lược phát triển kinh tế số (IDS) tổ chức tọa đàm khoa học với chủ đề "Năng lượng mới Hydrogen/Amonia xanh - Xu hướng toàn cầu và triển vọng ngành kinh tế mới của Việt Nam".

Theo đánh giá của các chuyên gia năng lượng, lượng khí thải carbon trên thế giới đang ở mức gần 40 tỷ tấn/năm. Mục tiêu zero-carbon (lượng khí thải bằng 0) vào năm 2050 sẽ cần đến sự nỗ lực rất lớn của các quốc gia trong chuyển đổi năng lượng và áp dụng công nghệ giảm phát thải.

Một trong những giải pháp năng lượng mới đang được các quốc gia đầu tư phát triển là sản xuất hydrogen/amonia xanh. Đây là phương pháp sản xuất nhiên liệu thân thiện với môi trường bằng cách sử dụng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, sinh khối... Hydro sạch có thể góp phần giảm tới 80 tỷ tấn CO2 vào năm 2050, phần lớn nhờ các ứng dụng trong công nghiệp và vận tải.

Trao đổi tại toạ đàm, chuyên gia từ Tập đoàn năng lượng KBR (Hoa Kỳ) cho biết, lượng khí thải ròng bằng 0 không có nghĩa là hoàn toàn loại bỏ nhiên liệu. Cùng với việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch, sẽ có sự tăng trưởng nhanh chóng về nhiên liệu phát thải thấp (bao gồm năng lượng sinh học hiện đại rắn, lỏng và khí, nhiên liệu dựa trên hydro). Những loại nhiên liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải từ vận tải đường dài và phát thải từ quá trình sản xuất công nghiệp.

Theo Tập đoàn năng lượng Neuman & Esser (CHLB Đức), hiện trên thế giới đã có 40 nước thiết lập chiến lược hydro quốc gia. Năm 2022, có 534 dự án sản xuất hydrogen quy mô lớn với tổng trị giá 240 tỷ USD đã được công bố trên toàn thế giới; tăng 49% so với năm 2021 (160 tỷ USD). Con số này dự báo còn tiếp tục tăng lên do trong bối cảnh biến động địa chính trị, nhiều quốc gia đang cố gắng đa dạng hóa và độc lập về nguồn năng lượng.

Với chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và vị trí địa lý thuận lợi, chuyên gia của Neuman & Esser nhận định, Việt Nam có điều kiện tốt để phát triển nền kinh tế hydro khi dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về năng lượng tái tạo, trong đó tiềm năng về năng lượng gió và mặt trời là rất lớn nhờ vị trí địa lý. Trên thực tế, Việt Nam đã xây dựng nhiều nhà máy điện mặt trời và các trạm turbin gió ngoài khơi, tập trung ở khu vực Trung bộ và Nam bộ. Đây chính là các nguồn nhiên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất hydro.

TS. Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng đánh giá, việc định hướng phát triển ngành sản xuất hydrogen/amonia xanh không chỉ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, tiến tới mục tiêu zero-carbon mà Việt Nam đã cam kết tại COP26, mà còn là cơ hội để hình thành một ngành kinh tế mới, thu hút vốn đầu tư tư nhân và FDI chất lượng cao.

TS. Trần Văn, Viện trưởng IDS nhấn mạnh, với vai trò là tổ chức nghiên cứu khoa học, xúc tiến ứng dụng công nghệ mới vào nền kinh tế, IDS nhận thấy rằng việc phát triển ngành hydrogen/amonia xanh sẽ là cơ hội để Việt Nam có thêm động lực thúc đẩy tăng trưởng trong giai đoạn tới. IDS cũng sẵn sàng đóng vai trò đầu mối tiếp nhận nghiên cứu đầu tư và chuyển giao công nghệ hydrogen/amonia xanh cho các tổ chức, đơn vị có nhu cầu tìm hiểu và đầu tư vào ngành kinh tế mới này.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ