Giám đốc VPS: VN-Index có thể lên 1.300 điểm ngay trong tuần này

Nhàđầutư
TS Lê Đức Khánh – Giám đốc Phát triển năng lực đầu tư VPS tin tưởng VN-Index có thể dao động 1.280 – 1.300 điểm trong tuần giao dịch 10 – 14/5.
TẢ PHÙ
11, Tháng 05, 2021 | 07:00

Nhàđầutư
TS Lê Đức Khánh – Giám đốc Phát triển năng lực đầu tư VPS tin tưởng VN-Index có thể dao động 1.280 – 1.300 điểm trong tuần giao dịch 10 – 14/5.

nhadautu - phien 10.5

Các cổ phiếu VN30 chốt phiên 10/5. Ảnh: Chụp màn hình. 

Thông tin dồn dập về đại dịch COVID-19 là một phần cơ sở để giới đầu tư tin rằng VN-Index sẽ điều chỉnh trong phiên đầu tuần (10/5). Dù vậy, chỉ số gây bất ngờ với giới đầu tư khi chốt phiên tăng mạnh 17,77 điểm lên 1.259,58 điểm.

TS Lê Đức Khánh – Giám đốc phát triển năng lực đầu tư CTCP Chứng khoán VPS đã có một số trao đổi với Nhadautu.vn.

PV: Bất chấp các thông tin tiêu cực về dịch bệnh, VN-Index vẫn tăng mạnh với dòng tiền lan tỏa ra nhiều nhóm cổ phiếu. Dường như tâm lý nhà đầu tư rất vững chắc và thị trường đang có nhiều cơ hội chinh phục các mức điểm cao hơn?

TS Lê Đức Khánh: VN-Index phiên hôm nay khiến tôi tương đối bất ngờ! Tôi dự báo thị trường sẽ điều chỉnh đôi chút, không nghĩ lại tăng mạnh như thế. Thị trường phản ánh dòng tiền của nhà đầu tư vẫn chực chờ luôn tham gia.

Về mặt bản chất, dòng tiền tập trung chủ yếu vào nhóm VN30. Cùng với đó, dòng tiền cũng có sự lan tỏa sang những cổ phiếu có kết quả kinh doanh tích cực thuộc nhóm ngân hàng, chứng khoán (ngoài VN30), tài nguyên cơ bản, thép, hóa chất, dầu khí...

Tôi cho rằng, VN-Index có thể dao động quanh mức 1.280 – 1.300 điểm trong tuần. Chỉ số có khả năng sẽ chịu áp lực rung lắc, chốt lời trong ngắn hạn, xa hơn, có thể điều chỉnh để lên cao hơn, nhưng chưa thể nói ngay được.

Có thể thấy, dịch bệnh COVID-19 không còn quá ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư. Ở các giai đoạn trước, chỉ số sẽ có phản ứng quá đà nhưng sau đó luôn trở về trạng thái cân bằng.

Các yếu tố ảnh hưởng đến chứng khoán Việt Nam vẫn sẽ là triển vọng kinh tế và đặc biệt là mức độ quan tâm của nhà đầu tư. Số liệu từ Trung tâm lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) cho biết trong tháng 4, nhà đầu tư trong nước đã mở mới 110.121 tài khoản chứng khoán, ít hơn 3.000 so với tháng trước nhưng vẫn là con số rất cao.

luu-duc-khanh-0941

TS Lê Đức Khánh – Giám đốc Phát triển năng lực đầu tư CTCP Chứng khoán VPS.

PV: Nhóm ngân hàng tiếp tục có một phiên bùng nổ với đa số các mã đóng cửa tăng điểm. Theo ông, dư địa tăng của nhóm này còn ko?

TS Lê Đức Khánh: Nhóm ngân hàng năm vừa qua (2020) nằm trong top 4 ngành có kết quả kinh doanh tích cực và triển vọng năm 2020 tươi sáng. Về bản chất, một mã cổ phiếu ngân hàng vừa có thể mang tính phòng thủ, vừa thuộc nhóm tăng trưởng tài chính tốt trong giai đoạn kinh tế hồi phục. Nhà đầu tư không thể tìm cổ phiếu nào đáp ứng các yếu tố trên như nhóm ngân hàng, đặc biệt nhà đầu tư F0 rất ưa chuộng nhóm này.

Dù vậy, cũng lưu ý rằng nhóm này đang ở mức giá cao, tiềm ẩn rủi ro. Do đó, khả năng tăng trưởng tiếp thấp dần đi, vì mức giá cổ phiếu cao đồng nghĩa sẽ trở nên dần kém hấp dẫn, nhà đầu tư cần phân bổ danh mục cho phù hợp.

PV: Hưởng lợi từ giá thép tăng, các cổ phiếu nhóm thép tăng rất mạnh. Ông đánh giá thế nào về tiềm năng của nhóm này?

TS Lê Đức Khánh: Ngoài câu chuyện về giá thép tăng, cần xét đến đặc tính của nhóm thép là các cổ phiếu theo chu kỳ. Hiện tại, nhóm này đang hưởng lợi nhờ nhu kỳ kinh tế Việt Nam tăng trưởng, cụ thể là nhu cầu xây dựng.

Theo số liệu, kết quả kinh doanh nhóm thép nằm trong top 2-3 nhóm có kết quả tốt nhất trên thị trường (năm 2020) và dự kiến sẽ còn tốt hơn nữa. Do đó, không ngạc nhiên khi nhóm cổ phiếu này đang được các nhà đầu tư ưa chuộng.  

Dù vậy, khi đầu tư, cần xét đến từng mã cụ thể với các phương pháp như giá trị sổ sách, phương pháp chiết khấu dòng tiền.

Cảm ơn ông!

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ