Giá vàng ở vùng thấp nhất trong 2 tháng qua

Giá vàng hơn một tuần gần đây đi ngang vùng 1.780 USD/ounce, cũng là vùng thấp nhất kể từ cuối tháng 4.
QUANG THẮNG
25, Tháng 06, 2021 | 14:16

Giá vàng hơn một tuần gần đây đi ngang vùng 1.780 USD/ounce, cũng là vùng thấp nhất kể từ cuối tháng 4.

Sau những phiên lao dốc mạnh từ vùng trên 1.900 USD/ounce xuống dưới 1.800 USD tuần trước, giá vàng thế giới đến nay vẫn chưa quay trở lại được vùng 1.800 USD. Trong hơn một tuần gần đây, giá kim loại quý liên tục đi ngang vùng 1.780 USD, cũng là vùng thấp nhất 2 tháng trở lại đây.

Trong phiên giao dịch đêm qua (giờ Việt Nam), giá vàng giao ngay trên sàn New York tiếp tục giảm 3,8 USD, đóng cửa ở mức 1.774,5 USD/ounce. So với hai tuần trước, giá vàng tại đây đã giảm tới 126 USD, tương đương mức giảm ròng 6,6%.

Chi_Hung_Zing_8

Giá vàng thế giới đang tạo mặt bằng giá mới ở vùng thấp dưới 1.800 USD/ounce. Ảnh: Chí Hùng

Diễn biến tương tự cũng ghi nhận với giá vàng trên sàn Kitco, hiện phổ biến giao dịch quanh mức 1.778 USD/ounce, mức thấp nhất 2 tháng gần đây.

Trên sàn Comex, giá hợp đồng vàng tương lai giao tháng 8 hiện cố định ở mức 1.775,2 USD/ounce, thấp hơn 8,2 USD so với phiên liền trước, tương đương mức giảm 0,45%. Dữ liệu của sàn Kitco ghi nhận, không chỉ giảm về giá mà thanh khoản giao dịch hợp đồng vàng tương lai còn giảm rõ rệt trong những phiên gần đây.

Theo ông Gary Wagner, chuyên gia phân tích kim loại quý của Kitco, giá vàng tuần này giao dịch dưới áp lực khi dòng vốn đang chuyển vào thị trường chứng khoán Mỹ. Trái ngược với kim loại quý đêm qua, thị trường cổ phiếu của Mỹ lại ghi nhận mức tăng đáng kể và lên vùng cao nhất mọi thời đại.

Cụ thể, chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã tăng 322,58 điểm (0,95%), đóng cửa ở mức 34.196,82điểm; chỉ số S&P 500 tăng hơn 0,5%, đóng cửa ở mức 4266,49 điểm; chỉ số NASDAQ Composite tăng 0,69%, đóng cửa ở 14.369,78 điểm.

Theo ông Peter Grosskopf, CEO của Sprott Inc - công ty quản lý hơn 17 tỷ USD vàng - thông báo về thời gian tăng lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tuần trước đã đẩy dòng tiền đầu cơ ra khỏi thị trường vàng.

Tuy nhiên, ông Grosskopf cho rằng tiềm năng dài hạn của vàng vẫn còn nguyên vẹn. Trong đó, chi tiêu của Chính phủ và nợ quá nhiều trên toàn thế giới sẽ buộc ngân hàng trung ương các nước phải giữ lãi suất thấp trong tương lai gần. Và việc giá vàng giảm hơn 5% tuần trước sau thông báo của FED là một cơ hội mua tốt.

“Lạm phát ngày càng tăng là điều khiến vàng trở nên hấp dẫn. Không chỉ FED buộc phải giữ lãi suất ở mức thấp, mà cơ quan này còn đang đánh giá quá thấp áp lực tăng chỉ số giá tiêu dùng”, CEO của Sprott Inc nhấn mạnh.

DIEN_BIEN_GIA_VANG_MOT_THANG_QUA_1

 

Tại thị trường trong nước, dù chịu áp lực giảm tương tự thế giới nhưng vàng trong nước vẫn được các doanh nghiệp bán ra quanh vùng 57 triệu đồng/lượng.

Hôm nay, Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) hiện niêm yết giá vàng miếng khu vực TP.HCM ở mức 56,45 - 57 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), chỉ giảm 50.000 đồng so với phiên liền trước.

Tương tự, vàng SJC bán ra tại Hà Nội sáng nay cũng phổ biến ở 57,02 triệu/lượng, giảm so với phiên liền trước nhưng lại cao hơn cuối tuần trước 250.000 đồng/lượng.

Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ) hiện cũng niêm yết giá vàng miếng ở 56,45 triệu/lượng (mua) và 57 triệu/lượng (bán), giảm tương ứng 50.000 đồng so với phiên 24/6. Tương tự SJC, giá vàng miếng do PNJ bán ra hiện cũng cao hơn 300.000 đồng so với cuối tuần trước.

Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI hôm nay chấp nhận mua vào vàng miếng với giá 56,45 triệu/lượng và bán ra ở 56,95 triệu đồng, không thay đổi so với phiên liền trước nhưng tăng 200.000 đồng so với một tuần trước.

Hiện một ounce vàng thế giới quy đổi ra tiền Việt chỉ có giá 49,4 triệu đồng/lượng, thấp hơn các doanh nghiệp trong nước đưa ra khoảng 7,6 triệu đồng.

(Theo Zing)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ