Giá vàng lại giảm sau đợt sụt giảm hàng ngày lớn nhất trong gần hai năm

Nhàđầutư
Giá vàng thế giới tiếp tục giảm sau đợt giảm hàng ngày lớn nhất trong gần hai năm, với căng thẳng giảm bớt ở Trung Đông và dấu hiệu Cục Dự trữ Liên bang sẽ giữ lãi suất cao hơn để đáp ứng nhu cầu hạn chế lâu hơn, theo Bloomberg.
CHÍ THÀNH
23, Tháng 04, 2024 | 10:53

Nhàđầutư
Giá vàng thế giới tiếp tục giảm sau đợt giảm hàng ngày lớn nhất trong gần hai năm, với căng thẳng giảm bớt ở Trung Đông và dấu hiệu Cục Dự trữ Liên bang sẽ giữ lãi suất cao hơn để đáp ứng nhu cầu hạn chế lâu hơn, theo Bloomberg.

Kim loại quý này giảm giá xuống còn 2.300 USD/ounce sau khi giảm 2,7% vào thứ Hai do lo ngại xung đột giữa Israel và Iran sẽ leo thang mờ dần.

Tehran hạ thấp tác động và tầm quan trọng của cuộc tấn công gần đây của Tel Aviv, nói rằng Israel đã nhận được "phản ứng cần thiết trong giai đoạn này".

Gia vang BB

Giá vàng thế giới liên tục giảm trong 2 ngày nay. Ảnh minh họa của Bloomberg

Richard Grace, nhà phân tích tiền tệ cấp cao và nhà kinh tế quốc tế tại ITC Markets, cho biết trong một lưu ý: Việc giảm bớt căng thẳng ở Trung Đông đã "tạo ra một số hoạt động chốt lời và có khả năng đã xảy ra một số hoạt động bán khống chiến thuật do giá vàng tăng vọt gần đây". 

Vàng thỏi vẫn tăng khoảng 16% kể từ giữa tháng 2, với mức tăng được hỗ trợ bởi rủi ro địa chính trị, sức mua của ngân hàng trung ương và nhu cầu từ người tiêu dùng Trung Quốc.

Kim loại quý đã tăng giá bất chấp đà tăng của đồng đô la và lãi suất trái phiếu kho bạc khi có dấu hiệu Fed sẽ trì hoãn chính sách xoay trục được nhiều người mong đợi.

Gia vang 23-24-BB

Diễn biến giá vàng trong 1 năm qua. Đồ họa của Bloomberg

Các nhà giao dịch hiện đang chuyển sự chú ý sang dữ liệu kinh tế Mỹ công bố trong tuần này, có thể cung cấp thêm manh mối về lộ trình điều hành chính sách tiền tệ. Các nhà hoạch định chính sách ngày càng tỏ ra lạc quan hơn về triển vọng lãi suất trong những tuần gần đây sau một loạt báo cáo lạm phát mạnh.

Với việc các thị trường tiếp tục hạ thấp kỳ vọng về việc nới lỏng tiền tệ trong năm nay, kim loại quý có thể buộc phải tính đến triển vọng về môi trường lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn, một kịch bản thường gây trở ngại cho vàng vì nó không trả lãi. .

Vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 2.302,05 USD/ounce lúc 11:09 sáng tại Singapore. Chỉ số Bloomberg Dollar Spot Index không thay đổi. Bạc giảm giá sau khi giảm 5,2% trong phiên trước. Palladium và bạch kim cũng giảm giá.

Giá vàng trong nước giảm mạnh

Giá vàng trong nước sáng nay lao dốc mạnh theo đà rơi thẳng đứng của giá vàng thế giới, các doanh nghiệp báo giá mua vàng miếng SJC chưa tới 80 triệu đồng/lượng.

Lúc 9 giờ ngày 23/4, giá vàng miếng SJC được Công ty vàng SJC niêm yết mua vào 79,8 triệu đồng/lượng, bán ra 82,3 triệu đồng/lượng, giảm khoảng 1,2 triệu đồng/lượng so với cuối ngày hôm qua. Trong 2 ngày qua, giá vàng SJC mất tới khoảng 1,5 triệu đồng/lượng.

Giá vàng miếng SJC cũng có sự cách biệt khá lớn giữa các doanh nghiệp trong bối cảnh biến động mạnh. Tập đoàn DOJI bán ra 82,1 triệu đồng/lượng trong khi Công ty PNJ bán ra vẫn 82,9 triệu đồng/lượng.

Không chỉ vàng miếng, giá vàng nhẫn và vàng trang sức 24K các loại cũng giảm mạnh về còn 72,9 triệu đồng/lượng mua vào, 74,7 triệu đồng/lượng bán ra, mất khoảng 800.000 đồng so với cuối ngày hôm qua. Trong 2 ngày, giá vàng nhẫn cũng "bốc hơi" khoảng 1,6 triệu đồng/lượng.

Giá vàng trong nước giảm sốc trong ngày Ngân hàng Nhà nước dự kiến đấu thầu phiên thứ 2 vàng miếng nhằm tăng cung ra thị trường, sau khi phiên đầu tiên bị hủy vì không đủ thành viên đăng ký dự thầu. Đồng thời, giá vàng trong nước còn chịu ảnh hưởng mạnh bởi đà "rơi tự do" của giá thế giới.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ