Giá thế giới lập đỉnh, than nội chỉ tăng giá nhẹ

Nhàđầutư
Báo cáo mới đây của SSI đưa ra nhận định, năm 2021 dù giá than thế giới lập kỷ lục nhưng giá than trong nước chỉ tăng nhẹ khoảng 4%. Tuy nhiên, đến năm 2022 ngành than sẽ có nhiều dấu hiệu tích cực hơn khi giá than trong nước dự kiến điều chỉnh từ 10 – 15%.
ĐÌNH VŨ
12, Tháng 10, 2021 | 10:22

Nhàđầutư
Báo cáo mới đây của SSI đưa ra nhận định, năm 2021 dù giá than thế giới lập kỷ lục nhưng giá than trong nước chỉ tăng nhẹ khoảng 4%. Tuy nhiên, đến năm 2022 ngành than sẽ có nhiều dấu hiệu tích cực hơn khi giá than trong nước dự kiến điều chỉnh từ 10 – 15%.

than

Ảnh: Internet.

Báo cáo cập nhật ngành than mới đây của SSI dẫn thông tin từ Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho biết, nhu cầu than toàn cầu trong 9 tháng năm 2021 mặc dù chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ, nhưng giá than trung bình đã tăng mạnh 110% so với cùng kỳ và 75% so với đầu năm, lập kỷ lục cao nhất trong lịch sử. Nguyên nhân chủ yếu của cơn sốt than toàn cầu đến từ căng thẳng thương mại Trung Quốc – Úc và các lệnh hạn chế nhập khẩu than của Trung Quốc; nguồn cung than và các nguyên liệu đốt khác phục hồi chậm trong tình hình dịch bệnh phức tạp; Trung Quốc tiếp tục thắt chặt kiểm soát ô nhiễm ở các ngành công nghiệp nặng.

Trong năm 2022, IEA và Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF dự báo, sản lượng tiêu thụ than toàn cầu sẽ tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ năm 2021 và giá than thế giới sẽ chỉ cao hơn 7% so với trung bình năm 2021 khi thị trường than dần hạ nhiệt nhờ nguồn cung bắt đầu tăng nhanh từ nhiều mỏ than mới được cấp phép ở các quốc gia.

Đáng chú ý, giá than ở Việt Nam không đồng pha với giá than thế giới do chính sách quản lý giá ở Việt Nam với chỉ 2 đơn vị được phép khai thác và bán than trong nước là Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc. Giá than trong nước thường chỉ điều chỉnh khi có mức tăng lớn về chi phí sản xuất và thường chỉ diễn ra 3 - 4 năm/lần.

Trong năm 2021, giá than trong nước chưa điều chỉnh nhiều, mới chỉ có giá than cho sản xuất xi măng điều chỉnh tăng 9% trong tháng 8, còn giá than cho nhiệt điện vẫn giữ nguyên để giảm áp lực cho EVN khi chính phủ đang yêu cầu hỗ trợ giá điện trong thời điểm dịch bệnh.

Do nhu cầu than trong nước chủ yếu phục vụ cho nhiệt điện (chiếm 72%), SSI ước tính giá than năm 2021 chỉ tăng nhẹ 4% so với cùng kỳ năm 2020. Về phía nhập khẩu, giá than nhập khẩu của Việt Nam tăng đồng pha với giá than thế giới, với mức tăng trung bình 83% so với cùng kỳ năm 2020 trong 9 tháng đầu năm 2021.

Trước diễn biến giá than tăng mạnh, các ngành công nghiệp trong nước bị ảnh hưởng chính bao gồm nhiệt điện, xi măng, luyện kim và phân bón. Trong đó, bởi vì giá than thế giới tăng đột biến so với than trong nước, các ngành có tỷ lệ than nhập trên tổng than sử dụng trong ngành cao như xi măng (66%), sắt thép (88%), phân bón (74%) sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất; còn nhiệt điện ít bị ảnh hưởng hơn do tỷ lệ than nhập mới chỉ chiếm 24% tổng than sử dụng và chính phủ cũng ưu tiên nguồn than trong nước cho nhiệt điện.

Ngành than sẽ là ngành chịu tác động trực tiếp từ cơn sốt than. Tổng doanh thu của đơn vị sản xuất lớn nhất là TKV trong 9 tháng đạt 94,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2020, nhưng sản lượng than tiêu thụ chỉ đạt 29,6 triệu tấn giảm 1,3% do tình hình giãn cách xã hội kéo dài và huy động nhiệt điện giảm sút vì sản lượng điện tái tạo tăng mạnh.

Chi phí sản xuất than cũng tăng cao do giá than thế giới tăng cao trong khi hai đơn vị sản xuất trong nước là TKV và Đông Bắc đang phải nhập khẩu khoảng 20 - 25% lượng than từ Úc và Indonesia để trộn với than trong nước đáp ứng nhu cầu nội địa. Đồng thời, chi phí nhiên liệu cũng tăng mạnh khiến việc khai thác than trở nên đắt đỏ hơn.

Tổng doanh thu và LNST của các doanh nghiệp khai thác than niêm yết trong nửa đầu năm 2021 lần lượt đạt 10,6 nghìn tỷ đồng, giảm 1,7% và 115 tỷ đồng, giảm 8,2%. Trong nửa cuối năm 2021, các doanh nghiệp than chưa có quá nhiều triển vọng về tăng giá bán hay đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ.

Sang năm 2022, SSI nhận định, ngành than sẽ có nhiều dấu hiệu tích cực khi giá than trong nước dự kiến điều chỉnh từ 10 – 15% do chi phí sản xuất than của TKV và Đông Bắc đã tăng cao trong năm 2021 và nhu cầu từ nhiệt điện bắt đầu phục hồi trở lại khi giãn cách xã hội được nới lỏng. Các doanh nghiệp khai thác than đang niêm yết cũng sẽ bắt đầu được hưởng lợi khi đàm phán lại giá bán mới cho TKV trong năm 2022.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26797.00 26905.00 28111.00
GBP 31196.00 31384.00 32369.00
HKD 3185.00 3198.00 3303.00
CHF 27497.00 27607.00 28478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16496.00 16562.00 17072.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18212.00 18285.00 18832.00
NZD   15003.00 15512.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3598.00 3733.00
SEK   2304.00 2394.00
NOK   2295.00 2386.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ