Đô la lên giá khi Fed nói về khả năng tăng lãi suất sớm hơn

Đồng đô la tăng giá hai ngày qua sau khi Ngân hàng Trung ương Mỹ cho biết khả năng tăng lãi suất sớm hơn, 2023 thay vì 2024.
KIM NGÂN
18, Tháng 06, 2021 | 14:22

Đồng đô la tăng giá hai ngày qua sau khi Ngân hàng Trung ương Mỹ cho biết khả năng tăng lãi suất sớm hơn, 2023 thay vì 2024.

A-dollar

Đồng đô la tăng 1,8% so với đồng euro hai ngày qua. Ảnh: Nairametrics

Đồng đô la ghi nhận mức tăng trong hai ngày lớn nhất từ đầu năm đến nay sau khi Fed nói về khả năng tăng lãi suất lần đầu tiên sau đại dịch. 

Chỉ số đô la, đo lường giá trị của đồng tiền Mỹ so với một rổ tiền tệ gồm những đồng tiền lớn khác, tăng 0,87% hôm thứ Năm, sau khi tăng gần 0,6% ở phiên giao dịch trước đó.

Đồng euro mất giá 0,77% so với đồng đô la, tức 1 euro tương đương 1,19 đô la vào thứ Năm. Đồng đô la tăng 1,8% so với đồng euro hai ngày qua.

Hôm thứ Tư, Fed cho biết hầu hết các quan chức Fed cho rằng lãi suất có thể được nâng lên vào năm 2023, so với các dự báo trước đó là năm 2024, do nền kinh tế Mỹ phục hồi mạnh mẽ và lạm phát ở mức 5% vào tháng Năm.

Chủ tịch Fed Jay Powell cũng cho biết các quan chức Fed đang đề cập đến khả năng giảm mua tài sản trị giá 120 tỷ đô la mỗi tháng mà Fed đang làm, vốn thúc đẩy thị trường tài chính kể từ tháng 3 năm 2020.

Brian Nick, chiến lược gia trưởng về đầu tư tại công ty quản lý tài sản Nuveen, cho biết: “Phản ứng của đồng đô la là không tương xứng”. 

“Tôi cảm thấy có rất nhiều tiền đang đợi giao dịch, chờ kích hoạt”, Nick nói.

Trước đó, chỉ số đô la hầu như không dịch chuyển trong nhiều tuần do các nhà giao dịch đợi manh mối về lãi suất.

Các nhà đầu tư phần lớn cho rằng Fed sẽ bắt đầu thảo luận về việc giảm bớt mua tài sản vào cuối mùa hè này, và họ tập trung chú ý đến các tín hiệu từ hội nghị thượng đỉnh Jackson Hole của các nhà hoạch định chính sách toàn cầu vào tháng 8.

Brian Rose, kinh tế trưởng của UBS Global Wealth Management, tin rằng Ngân hàng Trung ương sẽ phát ra "nhiều cảnh báo" tới những người tham gia thị trường, và tìm cách kết thúc quá trình giảm bớt nới lỏng tiền tệ trước khi tăng lãi suất.

Sự thay đổi trong dự báo về lãi suất của các nhà hoạch định chính sách Fed đã gây bán tháo trên thị trường Kho bạc Hoa Kỳ hôm thứ Tư, nơi lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm tăng 0,09 điểm phần trăm. Lợi suất trái phiếu chính phủ châu Âu giảm tiếp vào thứ Năm.

Tuy nhiên, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đã đảo chiều mạnh vào thứ Năm. Lợi suất kỳ hạn 10 năm thấp hơn 0,06 điểm phần trăm ở mức 1,51%. Trái phiếu kỳ hạn 30 năm có chuyển động lớn hơn, lợi suất giảm khoảng 0,1 điểm phần trăm xuống còn 2,1%.

Hôm thứ Năm, các trái phiếu bạc có kỳ hạn ngắn hơn tiếp tục chuyển động như thứ Tư. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn hai năm tăng gần 0,01 điểm phần trăm, lên 0,21%.

Trong khi đó, thị trường chứng khoán vẫn ở gần mức cao của thời gian gần đây do các nhà đầu tư thấy các quan chức Fed lạc quan hơn về triển vọng tăng trưởng kinh tế.

Chỉ số cổ phiếu blue-chip S&P 500 của Phố Wall giữ nguyên hôm thứ Năm, sau khi giảm 0,5% vào thứ Tư. Chỉ số Nasdaq Composite tập trung vào công nghệ tăng 0,9%. Stoxx Europe 600 không đổi.

Zehrid Osmani, giám đốc quỹ tín thác toàn cầu của Martin Currie, cho biết đợt tăng lãi suất tiếp theo của Mỹ “sẽ diễn ra vào thời điểm nền kinh tế [toàn cầu] có thể tự đứng vững”.

“Nếu các quan chức Fed vẫn tiếp tục cho rằng đợt tăng lãi suất tiếp theo phải là tận cuối năm 2024, sẽ có nhiều điều phải lo lắng hơn vì nền kinh tế Mỹ có thể nằm trong nguy cơ quá nóng”.

Juliette Cohen, chiến lược gia tại CPR Asset Management, cảnh báo các nhà đầu tư cổ phiếu đang thể hiện sự “hài lòng quá mức” về lạm phát. “Lạm phát có thể làm xói mòn thu nhập của các doanh nghiệp nếu họ không thể chuyển chi phí đầu vào tăng cao cho khách hàng”.

Nếu các doanh nghiệp chỉ ra những vấn đề như vậy trong báo cáo thu nhập quý 2 sắp tới, Cohen nói, “tâm trạng tích cực trên thị trường chứng khoán sẽ là vấn đề cần phải xem lại”.

(Theo The Financial Times)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ