Đại dịch COVID-19 làm giảm tiền lương toàn cầu

Nhàđầutư
Hàng trăm triệu người lao động trên toàn thế giới đã bị giảm lương trong 6 tháng đầu năm. COVID-19 đã tác động đặc biệt nặng nề đến tiền lương của phụ nữ và nhóm lao động vốn được trả lương thấp.
TRẦN VÕ
03, Tháng 12, 2020 | 10:49

Nhàđầutư
Hàng trăm triệu người lao động trên toàn thế giới đã bị giảm lương trong 6 tháng đầu năm. COVID-19 đã tác động đặc biệt nặng nề đến tiền lương của phụ nữ và nhóm lao động vốn được trả lương thấp.

Construction-Workers-848x480

Đại dịch COVID-19 làm giảm tiền lương toàn cầu.  Ảnh: Internet

Đây là nhận định trong Báo cáo Tiền lương toàn cầu 2020 - 2021 vừa được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) công bố.

Theo ILO, đại dịch COVID-19 đã khiến tiền lương tháng giảm đi hoặc tăng chậm hơn trong 6 tháng đầu năm ở 2/3 quốc gia toàn cầu có số liệu chính thức, và cuộc khủng hoảng này có khả năng sẽ khiến tiền lương còn giảm trầm trọng trong thời gian tới.

Cuộc khủng hoảng tác động đặc biệt nặng nề đến tiền lương của phụ nữ và nhóm lao động vốn được trả lương thấp.

Với những nước áp dụng những biện pháp quyết liệt để duy trì việc làm, có thể thấy rõ tác động chính mà khủng hoảng gây nên là tình trạng sụt giảm tiền lương thay vì mất việc hàng loạt.

Báo cáo Tiền lương toàn cầu 2020 - 2021 cho thấy không phải mọi người lao động đều bị ảnh hưởng như nhau bởi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng tác động tới phụ nữ nặng nề hơn so với nam giới. Số liệu ước tính dựa trên số liệu chọn mẫu của 28 quốc gia châu Âu cho thấy, nếu không có trợ cấp tiền lương, tiền lương của phụ nữ trong quý 2/2020 lẽ ra đã bị giảm 8,1%, trong khi con số này ở nam giới là 5,4%.

Khủng hoảng cũng tác động nghiêm trọng đến nhóm lao động vốn được trả lương thấp hơn. Thời giờ làm việc của lao động làm những công việc đòi hỏi kỹ năng thấp hơn giảm nhiều hơn so với các vị trí quản lý hay công việc chuyên môn được trả lương cao hơn. Sử dụng số liệu thu thập được từ 28 quốc gia châu Âu, báo cáo cho thấy nếu không có trợ cấp, ước tính 50% số lao động được trả lương thấp nhất lẽ ra đã phải đối diện với mức giảm 17,3% tiền lương.

Nếu không có trợ cấp, mức sụt giảm tiền lương trung bình ở tất cả các nhóm lẽ ra đã là 6,5%. Tuy nhiên, trợ cấp tiền lương đã bù đắp được 40% mức tổn thất này.

Ông Guy Ryder, Tổng giám đốc ILO, cho biết: "Sự gia tăng bất bình đẳng do cuộc khủng hoảng COVID-19 gây nên có nguy cơ để lại một hệ quả lâu dài về nghèo đói và bất ổn về kinh tế và xã hội, và đây là điều vô cùng tồi tệ".

Người đứng đầu ILO cho rằng, các quốc gia cần có những chính sách về tiền lương phù hợp có tính đến tính bền vững của việc làm và doanh nghiệp, đồng thời giải quyết tình trạng bất bình đẳng và sự cần thiết phải duy trì nhu cầu tiêu dùng.

Báo cáo cũng phân tích các hệ thống tiền lương tối thiểu - công cụ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập quá trình phục hồi bền vững và công bằng. Tiền lương tối thiểu hiện đang được triển khai dưới một số hình thức khác nhau tại 90% quốc gia thành viên của ILO.

Ngay cả trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, báo cáo cho thấy 266 triệu người trên toàn cầu, tương đương với 15% tổng số lao động làm công ăn lương trên toàn thế giới, có thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu giờ, do tình trạng không tuân thủ pháp luật hoặc do họ không thuộc diện bao phủ của những cơ chế đó theo quy định pháp lý. Phụ nữ là đối tượng chiếm số đông trong số những lao động có thu nhập bằng hoặc thấp hơn mức lương tối thiểu.

Báo cáo Tiền lương Toàn cầu 2020 - 2021 cũng xét đến xu hướng tiền lương tại 136 nước trong 4 năm trước đại dịch. Báo cáo cho thấy, tăng trưởng tiền lương thực tế toàn cầu dao động trong khoảng 1,6% đến 2,2%. Tiền lương thực tế tăng nhanh nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Âu và chậm hơn nhiều tại Bắc Mỹ và Bắc Âu, Nam Âu và Tây Âu.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ