Kinh nghiệm quốc tế về tài chính xanh thúc đẩy chuyển đổi năng lượng xanh
Từ kinh nghiệm của thế giới, cả Chính phủ và khu vực tài chính, ngân hàng nên có các chương trình tài chính xanh để tài trợ chuyển đổi năng lượng xanh, dựa trên điều kiện thị trường nhưng nên kết hợp với chính sách thưởng theo kết quả chuyển đổi.

I. Danh mục Phân loại Năng lượng xanh và Quyết sách mới từ Nghị quyết TƯ số 70
1. Danh mục Phân loại Năng lượng xanh:
Hiện nay có EU, ASEAN, CBI và 35 nước đã ban hành Danh mục phân loại xanh, trong đó Phân loại năng lượng xanh luôn là một cấu phần quan trọng nhất. Trong một số Danh mục phân loại xanh (EU, ASEAN, CBI…) từ 5 năm trở lại đây đã bổ sung thêm Danh mục các dư án chuyển đổi xanh, tức là các dự án thuộc về các phân ngành (nâu) có mức phát thải lớn, nhưng áp dụng các biện pháp chuyển đổi xanh, giảm đáng kể phát thải thì cũng được xếp vào Danh mục phân loại xanh.
Trong khuôn khổ đó, các dự án chuyển đổi năng lượng xanh sẽ bao gồm:
1) Các loại hình dự án năng lượng tái tạo, lưu trữ, chuyển tải, phân phối năng lượng tái tạo; ví dụ như: 1. Mặt trời; 2. Gió; 3. Địa nhiệt; 4. Sinh khối; 5. Thủy triều; 6. Sóng biển; 7. Hải lưu; 8. Chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường; 9. Nguồn năng lượng mới (Hydrogen xanh, Amoniac xanh). Trong thời gian gần đây điện hạt nhân cũng được một số nước đưa thêm vào Danh phục phân loại năng lượng xanh, không phát thải KNK.
2) Các dự án chuyển đổi xanh (thường bắt đầu với phân ngành nhiệt điện, sắt thép, xi măng, hóa chất và gần đây bao gồm cả điện than….). Tiêu chí xác định dự án chuyển đổi xanh không chỉ bao gồm các tiêu chí xanh, mà còn phải đáp ứng tiêu chí NO HARM, tức là không gây hại đáng kế đến các mục tiêu môi trường khác.
Ngày 4/7/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Danh mục phân loại xanh” theo Quyết định số 21/2025/QD-TTG quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc Danh mục phân loại xanh, trong đó danh mục phân loại năng lượng xanh như sau:
1. Sản xuất điện mặt trời
2. Sản xuất điện gió
3. Sản xuất điện từ nguồn năng lượng bền vững (*)
4. Sản xuất nhiệt hoặc làm mát từ các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới (*)
5. Sản xuất khí đốt từ các nguồn sinh khối
6. Sản xuất nhiên liệu hàng không bền vững
7. Xây dựng, lắp đặt công trình điện phục vụ phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng bền vững (*)
8. Xây dựng, sửa chữa, nâng cấp hệ thống phân phối điện tiết kiệm, hiệu quả năng lượng (*)
9. Sản xuất pin và ắc quy công nghệ cao, thân thiện với môi trường
10. Lắp đặt hệ thống lưu trữ điện từ năng lượng tái tạo (*)
(*) Dành cho một trong các loại hình năng lượng xanh sau: 1. Mặt trời; 2. Gió; 3. Địa nhiệt; 4. Sinh khối; 5. Thủy triều; 6. Sóng biển; 7. Hải lưu; 8. Từ chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường; 9. Nguồn năng lượng mới (Hydrogen xanh, Amoniac xanh).
Theo định nghĩa ở trên, danh mục phân loại xanh của Việt Nam hiện nay chưa bao gồm danh mục các dự án chuyển đổi năng lượng xanh!
2. Tầm nhìn từ Nghị quyết TƯ số 70 ngày 20/8/2025:
Yêu cầu mới, quy mô mới:
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới, nhất là thực hiện 2 mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và năm 2045, yêu cầu phát triển bền vững của Việt nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình với chuyển đổi mô hình phát triển phù hợp với xu thế chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tăng trưởng GDP trên 8% năm 2025 và 2 chữ số trong giai đoạn tiếp theo đặt ra yêu cầu to lớn đối với phát triển và đảm bảo an ninh năng lượng mà về cơ bản là chuyển đổi năng lượng xanh:
Bảng 1: So sánh mục tiêu cụ thể đến 2030 của NQ 70/TW 2025, NQ 55/TW 2020. QHĐ 8 điều chỉnh và Chiến lược Năng lượng 215/2024/QĐ-TTG

Bảng 1 cho thấy, các mục tiêu cụ thể của NQ 70/TW sau 5 năm 2020-2025 đã tăng mạnh yêu cầu phát triển so với NQ 55/TW: mục tiêu tăng trưởng GDP tăng +42,3%, trong khi tổng cung năng lượng sơ cấp giảm -13%, nhưng tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng lại tăng +14%, Tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp tang +67% - 50%; mục tiêu giảm phát thải KNK từ hoạt động năng lượng +133% ở phương án cao. Riêng đối với điện: tổng công suất các nguồn điện tặng mạnh từ +46% - 81,5%, nhưng tổng sản lượng điện chỉ tăng từ +1,8% - 4%. Các mục tiêu cụ thể của NQ 70/TW ngày 20/8/2025, tức là sau 4 tháng chỉ có tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp là 25-30% thấp hơn mức 28-36% của QHĐ 8 điều chỉnh ngày 15/4/2025.
Quy hoạch điện 8 điều chỉnh đặt ra các yêu cầu cơ bản là:
Phát triển tối đa nguồn điện từ năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối v.v...), tiếp tục gia tăng tỷ trọng của năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện và điện năng sản xuất. Khai thác tối đa tiềm năng kinh tế - kỹ thuật các nguồn thủy điện trên cơ sở bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh nguồn nước.
Nguồn điện lưu trữ bao gồm phát triển các nhà máy thủy điện tích năng và tăng công suất thủy điện tích năng để điều hòa phụ tải, dự phòng công suất và hỗ trợ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo với quy mô lớn, cũng như pin lưu trữ. Ưu tiên phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu.
Định hướng thực hiện chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối/amoniac với các nhà máy đã vận hành được 20 năm khi giá thành phù hợp. Dừng hoạt động các nhà máy có tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.
Phát triển nguồn điện hạt nhân không phát thải.
Bảng 2: Cơ cấu và vốn đầu tư nguồn điện xanh đến 2030: Năng lượng tái tạo, điện tích năng và lưu giữ

Bảng 3: Nhu cầu vốn đầu tư tới năm 2030 (theo QĐ 1509/2025/BCT ban hành Kế hoạch thực hiện QHĐ 8 điều chỉnh)

Như vậy, Theo QHĐ 8 điều chỉnh, trong tổng vốn đầu tư 136,3 tỷ USD, khả năng nguồn vốn đầu tư của nhà nước (bao gồm các nguồn vốn của các tập đoàn điện lực) chỉ là 40,3 tỷ USD (chiếm 29,5%) còn phải huy động vốn đầu tư từ tư nhân lên tới 96 tỷ USD (chiếm 70,5%). Riêng về vốn đầu tư nguồn điện (118,2 tỷ USD), tỷ lệ phải huy động vốn đầu tư từ tư nhân lên tới 90,8 tỷ USD (chiếm 76,2%).
Đây là thách thức tài chính vô cùng to lớn đối với Việt nam, khi bình quân hàng năm phải huy động 27,26 tỷ USD (khoảng 710.000 tỷ VNĐ), trong đó từ khu vực nhà nước là khoảng 8 tỷ USD (khoảng 210.000 tỷ VNĐ) và từ khu vực tư nhân là 19,2 tỷ USD (tương đương 500.000 tỷ VNĐ).
Trong số vốn tư nhân cần phải huy động cho đến năm 2030 là 2,5 triệu tỷ VND (nửa triệu tỷ hàng năm) này, cần phải huy động vốn tư nhân đầu tư vào phát triển nguồn điện là 90,8 tỷ USD (tương đương 2,36 triệu tỷ VND (472.000 tỷ VND hàng năm).
Nếu tính theo GDP năm 2025 (báo cáo Chính phủ ngày 3/10/2025) là 500 tỷ USD, thì tỷ lệ đầu tư cho QHĐ 8 đến 2030 trung bình hàng năm phải là 5,45% GDP (cũng gần tương đương với kết quả nghiên cứu của Bloomberg NEF dưới đây). Huy động vốn đầu tư tư nhân cho năng lượng sẽ là 3,84% GDP.
Tuy nhiên cho đến nay, trong tất cả các Nghị quyết, Chiến lược về phát triển năng lượng hoặc Quy hoạch, Kế hoạch triển khai QHĐ 8 đều không cho thấy rõ nhu cầu tổng vốn đầu tư và yếu cầu vốn đầu tư từ khu vực tư nhân cho chuyển đổi năng lượng xanh, cho NLTT là bao nhiêu?
Ước tính của tác giả tổng vốn đầu tư và tỷ trọng vốn đầu tư cho các nguồn điện xanh cho phương án công xuất thấp và cao của QHD 8 điều chỉnh theo thông số suất đầu tư năm 2023 (giai đoạn đến 2030) cho thấy nguồn vốn đầu tư cần huy động rất lớn từ 150,5 tỷ USD đến 253 tỷ USD, cao hơn nhiều so với tổng vốn đầu tư cho nguồn điện 118,2 tỷ USD của QHD 8 điều chỉnh. Rất có thể xuất đầu được tính toán trong QHD 8 cho năm 2025 được giả định thấp hơn rất nhiều?
Theo ước tính trên của tác giả, bình quân nhu cầu tài chính hàng năm (giai đoạn đến 2030) cho đầu tư NLTT sẽ là từ 30 đến 50,7 tỷ USD/năm. Tỷ lệ vốn đầu tư cho NLTT tính trên GDP (2025: 500 tỷ USD) sẽ là từ 6% đến 10,14% GDP.
Để xác định nhu cầu đầu tư và yêu cầu huy động tài chính cho chuyển đổi năng lượng, ta có thể tham khảo thêm kết quả Nghiên cứu của Bloomberg NEF về Đầu tư Chuyển đổi năng lượng của Việt nam (Report BloombergNEF New Energy Outlook ngày 23/12/2024) như sau:
Đối với giai đoạn 2024-2030, đầu tư chuyển đổi năng lượng trung bình là 46 tỷ đô la một năm. Con số này sẽ tăng gần gấp đôi trong thập kỷ tới với mức trung bình 100 tỷ đô la hàng năm. Thập kỷ cuối cùng trước năm 2050 chứng kiến sự sụt giảm đầu tư, đặc biệt là vào năng lượng tái tạo vì nó đã tăng nhanh từ năm 2031 đến năm 2040 (xem Hình 1). Về chi tiêu theo ngành, chỉ có xe điện và lưu trữ năng lượng tiếp tục tăng hàng năm từ năm 2024 đến năm 2050. Đầu tư hàng năm vào xe điện và lưu trữ năng lượng lần lượt tăng lên 41 tỷ USD và 5 tỷ USD từ năm 2041-2050, từ 8 tỷ USD và 3 tỷ USD mỗi năm trong phần còn lại của thập kỷ này.

Nghiên cứu của Bloomberg NEF chỉ ra rằng đầu tư hệ thống năng lượng chiếm tỷ trọng rất cao của nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung, tỷ trọng đầu tư và chi tiêu năng lượng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng sản phẩm quốc nội quốc gia trong giai đoạn 2024 đến 2050 theo kịch bản khí hậu Net Zero vào năm 2050. Đầu tư vào cung cấp năng lượng tương đương với trung bình 5% GDP của Việt Nam từ năm 2024 đến năm 2050. Con số của mỗi thập kỷ khác nhau đáng kể. Để đạt được mức phát thải ròng bằng 0, khoản đầu tư này cần chiếm lần lượt 6,5% và 6,3% GDP quốc gia trong phần còn lại của thập kỷ này và năm tới, tăng gần gấp ba lần so với 2,2% vào năm 2023. Tỷ lệ này sẽ giảm xuống còn 2,6% từ năm 2041 đến năm 2050.
Các nghị quyết 68/TW về phát triển kinh tế tư nhân và nghị quyết 70/TW về an ninh năng lượng đã ghi nhận vai trò quan trọng như các phân tích ở trên của khu vực tư nhân đặc biệt trong chuyển đổi năng lượng xanh và kịp thời đề ra các Quyết sách mới, trong đó có các định hướng lớn về Chính sách Tài chính và Tài chính xanh mới rõ nét hơn (xem mục 3 sau đây) và đặc biệt Quốc hội và Chính phủ đã có các nghị quyết 198/NQ-QH và 139/NQ-CP ban hành ngày 17/5/2025 để thực thị NQ 68/TW về chính sách hỗ trợ 2% lãi xuất cho các dự án xanh, tuần hoàn và ESG của doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước được Chính phủ giao và đã có dự thảo Nghi định để trình Chính phủ ban hành trong 2025.
3. Chính sách tài chính và tài chính xanh mới của NQ 70/TW đã chỉ rõ:
a. Cần có chính sách tài chính, tín dụng để phát triển năng lượng:
Tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng; Hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào các dự án trong lĩnh vực năng lượng theo hình thức nhà đầu tư độc lập hoặc đối tác công tư (PPP). Tận dụng vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn hỗ trợ quốc tế, nhất là nguồn vốn trong khuôn khổ Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) cho các dự án năng lượng.
Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng linh hoạt, hiệu quả, ưu tiên bố trí vốn tín dụng cho lĩnh vực năng lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn;
Nhà nước có cơ chế hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện các dự án năng lượng phi lợi nhuận, thân thiện môi trường.
b. Cần có chính sách tài chính, tín dụng xanh để phát triển năng lượng xanh, sạch:
Đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, tháo gỡ vướng mắc để tận dụng vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn hỗ trợ quốc tế, nhất là nguồn vốn trong khuôn khổ Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) cho các dự án chuyển đổi năng lượng.
Hoàn thiện chính sách thuế để khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các trang thiết bị sản xuất trong nước.
Phát triển thị trường trái phiếu xanh, triển khai tín dụng xanh. Khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo nhỏ và vừa, các dự án vừa sản xuất, vừa tiêu thụ năng lượng.
Ưu tiên bố trí nguồn vốn, gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh, sạch, công nghệ mới, doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống dự trữ năng lượng, nghiên cứu, phát triển và sản xuất thiết bị năng lượng trong nước.
Nghiên cứu áp dụng chính sách thuế carbon thích hợp đối với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch; quy định tiêu chuẩn hạn mức phát thải carbon. Khẩn trương xây dựng cơ chế trao đổi tín chỉ carbon, phát triển thị trường carbon trong nước.
II. Kinh nghiệm quốc tế về tài chính xanh thúc đẩy phát triển chuyển đổi năng lượng xanh:
1. Toàn cầu:
Trong 6 tháng đầu năm 2025, dòng vốn đổ vào công nghệ và dự án năng lượng tái tạo đạt mức kỷ lục 386 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo ước tính, tổng đầu tư năng lượng toàn cầu năm nay có thể đạt khoảng 3.300 tỷ USD (xem Hình 3). Trong đó, tuy hơn 1.000 tỷ USD dự kiến chảy vào nhiên liệu hóa thạch, nhưng gấp đôi con số đó – khoảng 2.200 tỷ USD (chiếm 67%) – sẽ dành cho các dạng năng lượng xanh, NLTT. Báo cáo của tổ chức Zero Carbon Analytics cho thấy tốc độ gia tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo không suy giảm đáng kể: Nửa đầu 2023–2024 tăng 12%, giai đoạn 2022–2023 tăng 17%.
“Điều này chứng minh lĩnh vực vẫn duy trì đà phát triển và nền tảng vững chắc. Dù tốc độ tăng trưởng có giảm, song vẫn tương ứng với mức trung bình ba năm qua và cho thấy năng lượng tái tạo kiên cường hơn nhiều so với dự đoán”.
Đầu tư cho điện gió trên bờ và ngoài khơi tăng khoảng 25% trong nửa đầu 2025, đạt 126 tỷ bảng Anh, với Trung Quốc và châu Âu là hai thị trường lớn nhất. Riêng từ tháng 1 đến nay, ít nhất 470 tỷ USD tài chính cho năng lượng sạch trong tương lai được công bố, trong đó khoảng 3/4 dành cho lưới điện và truyền tải. Đây được xem là tín hiệu tích cực cho các chính phủ trong lộ trình giảm phát thải khí nhà kính, bởi hệ thống lưới điện lạc hậu từ lâu là “nút thắt cổ chai” của mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo.
Theo dữ liệu của Net Zero Tracker – liên minh nghiên cứu gồm nhiều viện chính sách và học giả – khoảng 70% doanh thu của 2.000 công ty niêm yết hàng đầu toàn cầu đang gắn liền với kế hoạch đạt phát thải ròng bằng 0. Dù ông Trump đã đưa Mỹ rút khỏi Thỏa thuận Paris (xem Hình 2) và tháo dỡ nhiều nỗ lực liên bang trong ứng phó khủng hoảng khí hậu, không phải toàn bộ nước Mỹ đi theo đường lối này. Hiện có 19 bang vẫn cam kết mục tiêu phát thải ròng bằng 0; 304 tập đoàn lớn có trụ sở tại Mỹ đã đặt mục tiêu net zero, tăng so với 279 doanh nghiệp năm ngoái. Nhóm này chiếm gần 2/3 tổng doanh thu doanh nghiệp Mỹ, tương đương khoảng 12.000 tỷ USD doanh thu toàn cầu.



Trên quy mô toàn cầu, phát hành trái phiếu xanh là công cụ tài chính xanh quan trọng nhất để thúc đẩy, huy động và tài trợ vốn đầu tư cho chuyển đổi năng lượng xanh. Trong giai đoạn 2020-2024, quy mô trái phiếu xanh đạt 621 tỷ USD và đạt đỉnh 650 tỷ USD năm 2023. Tình hình năm 2024, các điều kiện phát hành không thuận lợi, đặc biệt là sự rút lui của các định chế tài chính, ngân hàng Mỹ, nhưng thông kê của Tổ chức Trái phiếu Khí hậu Toàn cầu CBI đến tháng 9/2024 vẫn đạt hơn 500 tỷ USD (xem Hình 4).
Hình 4: Phát hành trái phiếu xanh, trái phiếu xã hội và trái phiếu bền vững toàn cầu 2020-quý III/2024 (hình trên) và trái phiếu xanh bền vững toàn cầu 2006-2024 (hình dưới)


2. Kinh nghiệm của Ủy ban châu Âu (EU):
Ngày 18/5/2022, EU công bố kế hoạch trị giá 210 tỉ euro giúp chấm dứt sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch của Nga đến năm 2027 và nhanh chóng chuyển sang năng lượng xanh.
Để cắt giảm các loại nhiên liệu từ Nga, Brussels sẽ đề xuất một kế hoạch gồm 3 mũi nhọn: chuyển sang nhập khẩu nhiều khí đốt ngoài Nga, triển khai nhanh về năng lượng tái tạo và nỗ lực hơn nữa để tiết kiệm năng lượng.
EU dự kiến sẽ yêu cầu đầu tư bổ sung 210 tỉ euro bằng cách tài trợ kinh phí cho tiến trình chuyển đổi năng lượng từ quỹ phục hồi Covid-19 (Recovery Fund) và giảm hàng tỉ euro mà châu Âu chi cho nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch mỗi năm.
Nhu cầu khí đốt của châu Âu dự kiến giảm khoảng 1/3 vào năm 2030 theo các mục tiêu của khối về chuyển đổi năng lượng và thích ứng biến đổi khí hậu, trong đó có đề ra mục tiêu sản xuất 10 triệu tấn hydro tái tạo (hydrogen xanh) vào năm 2030, cũng như nhập khẩu 10 triệu tấn nhiên liệu khác, để thay thế khí đốt trong công nghiệp.
EC cũng đang xem xét đề xuất các mục tiêu cao hơn để mở rộng năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả, với 45% thị phần năng lượng tái tạo vào năm 2030, thay thế cho đề xuất 40% như hiện tại. Các kế hoạch mới của EU nhằm bắt đầu triển khai quy mô lớn năng lượng mặt trời cũng sẽ nỗ lực cắt giảm năng lượng từ khí đốt và sưởi ấm trong nhà, văn phòng và nhà máy bằng cách yêu cầu các quốc gia lắp đặt năng lượng mặt trời trong tất cả các tòa nhà công cộng mới từ năm 2025.
3. Kinh nghiệm của CHLB Đức về chuyển đổi năng lượng (còn được gọi bằng tiếng Đức là Energie Wende):
Chính sách khí hậu và chuyển đổi năng lượng đã trở thành trụ cột chính trong chiến lược phát triển dài hạn của CHLB Đức. Chiến lược chuyển đổi năng lượng (Enerrgie Wende) của Đức với 2 mục tiêu cụ thể là tỷ trọng NLTT chiếm 80% tổng tiêu dùng điện và 41% tổng tiêu dung năng lượng cuối cùng và giảm phát thải KNK 65% vào năm 2030 và đạt Net Zero năm 2050. Tuy nhiên, Luật Biến đổi Khí hậu sửa đổi năm 2021 đã đẩy nhanh mục tiêu trung hòa cac-bon tới năm 2045 (nhanh nhất thế giới) và đặt ra mục tiêu giảm 65% lượng khí thải vào năm 2030. Các biện pháp bổ sung bao gồm loại bỏ hoàn toàn than đá vào năm 2038 và đóng cửa hoàn toàn điện hạt nhân vào năm 2023. Những quyết định này, mặc dù gây tranh cãi, đã thay đổi đáng kể cơ cấu năng lượng của Đức.
Hình 5: Mô phỏng Mục tiêu cụ thể và Lộ trình thực thi Chiến lược Khí hậu và Chuyển đổi năng lượng của Đức đến 2030 và 2050

Sự cần thiết phải chuyển đổi năng lượng của Đức còn đến từ yếu tố địa chính trị, nước này đã phải thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu và khí đốt từ Nga. CHLB Đức đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng này trên cơ sở huy động một nguồn tài chính xanh khổng lồ và nhờ đó đã triển khai một loạt chính sách tài chính xanh khuyến khích mạnh mẽ (trong đó có 15 năm 2005-2020 áp dụng chính sách bù giá bán điện FiT – Fit in Tarif) và dành các khoản đầu tư to lớn vào năng lượng tái tạo, hiện đại hóa lưới điện và hệ thống lưu trữ năng lượng thế hệ tiếp theo.
Đến năm 2023, năng lượng tái tạo đã chiếm gần 60% tổng sản lượng điện công cộng ròng (Fraunhofer ISE, 2024). Sử dụng hiệu quả điện, nhiệt và nhiên liệu đồng thời làm giảm mức tiêu thụ năng lượng tổng thể, phát thải khí nhà kính và hóa đơn năng lượng. Kể từ năm 1990 đến nay, nhu cầu năng lượng sơ cấp của Đức đã giảm 20% ngay cả khi GDP đã tăng khoảng 50%.
Việc mở rộng hệ thống năng lượng của Đức diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng gió và quang điện. Chi phí đầu tư cần thiết vào năm 2030 là trên 100 tỷ EUR. Chính phủ Đức đã đặt mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 65% vào năm 2030. Giả định tổng mức tiêu thụ điện là 685 TWh vào năm 2030 và bỏ qua nhập khẩu và xuất khẩu điện để đơn giản hóa, tổng sản lượng điện hàng năm của năng lượng tái tạo sẽ phải tăng 77% vào thời điểm đó so với năm 2020 (từ 251 tỷ kWh vào năm 2020 lên khoảng 445 tỷ kWh vào năm 2030).
Hình 6: Tốc độ phát triển năng lượng tái tạo (màu xanh lá cây, năm 2020 đạt 45%) tại Đức 2000-2020

Agora Energiewende, một tổ chức Think Thanks về chuyển đổi năng lượng của Đức đã tính toán năm 2024, Đức cần khoảng 90 tỷ Euro vốn đầu tư hàng năm chưa kể nhu cầu vốn bổ sung, chưa được lập ngân sách. Tổng vốn đầu tư công (khoảng 39 tỷ EUR) và quỹ công để huy động đầu tư tư nhân (trung bình khoảng 50 tỷ EUR; không bao gồm bồi thường).
Hình 7: Đầu tư hàng năm cho chuyển đổi năng lượng của Đức từ 2000-2023 và dự kiến đến 2045

Chi tiết phân bổ vốn đầu tư cho các kỳ 10 năm từ 2000 đến 2050 cho từng loại hình chuyển đổi năng lượng được chi tiết trong bảng phía dưới, cụ thể 2000-2009 là 79,1 tỷ euro (1,98% GDP), 2000-2009 là 79,1 tỷ euro (1,98% GDP), 2000-2009 là 79,1 tỷ euro (1,98% GDP), 2010-2019 là 86 tỷ euro (1,93% GDP), 2020-2024 là 81,1 tỷ euro (1,66% GDP), 2025-2029 là 119,3 tỷ euro (2,38% GDP), 2030-2039 là 139,4 tỷ euro (2,51% GDP), 2040-2050 là 120,8 tỷ euro (2,33% GDP), tức là dao động từ 2 đến 2,5% GDP.
Mục tiêu giảm phụ thuộc vào nhập khẩu (trước đây là 70% nhập khẩu và 30% sản xuất trong nước) thông qua chuyển đổi năng lượng xanh sẽ giảm mạnh xuống còn 27% và sản xuất trong nước sẽ đảm bảo 73% nhu cầu năng lượng vào năm 2050.
Hình 8: Cơ cấu năng lượng và tỷ trọng phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng của Đức

Lưu ý: NLTT và than sản xuất trong nước (màu xanh, vàng và đen); năng lượng nhập khẩu gồm dầu, khí đốt, than và hạt nhân (màu đỏ, đen kẻ sọc)
Các bài học kinh nghiệm về chuyển đổi năng lượng (Energy Wende) của Đức:
Phải có cơ chế và cơ quan chính phủ điều phối: Bundesministerium für Wirtschaft und Energie, hay BMWE đóng vai trò trung tâm trong việc chỉ đạo quá trình chuyển đổi năng lượng. Bộ Tài chính Liên bang Đức (BMF), chịu trách nhiệm cung cấp tài chính cho các chương trình và chính sách hỗ trợ. Bộ xây dựng, nông nghiêp, môi trường, công nghệ. Cơ quan Mạng lưới Liên bang Đức (Bundesnetzagentur, hoặc BnetzA) là cơ quan quản lý cơ sở hạ tầng trung ương và cơ quan quản lý mạng lưới điện và khí đốt, thiết lập các điều kiện khung cho cạnh tranh công bằng. Nó chịu trách nhiệm điều tiết lưới điện, đấu giá năng lượng tái tạo và giám sát an ninh nguồn cung. Điều phối được hướng dẫn bởi Thủ tướng Liên bang và cũng diễn ra gián tiếp thông qua các mục tiêu và giám sát và báo cáo được thể chế hóa.
Energiewende của Đức cũng có thể được hiểu là một sự thay đổi cơ bản hướng tới một hệ thống cung cấp năng lượng dân chủ và phi tập trung hơn, nơi người dân, nông dân và các dự án thuộc sở hữu của cộng đồng đều có thể đóng một vai trò. Vì nhiều dự án năng lượng tái tạo được phân phối trên toàn quốc, việc khuyến khích sở hữu và đầu tư lớn hơn của địa phương đã và vẫn quan trọng để đảm bảo sự ủng hộ của công chúng đối với quá trình chuyển đổi năng lượng.
Xác định rõ Mục tiêu và lộ trình của chuyển đổi năng lượng, định kỳ điều chỉnh phù hợp:
Bảng 4: Mục tiêu và lộ trình của Chuyển đổi năng lượng và giảm phát thải KNK của Đức
| Mục tiêu và lộ trình của Chuyển đổi năng lượng | 2024 | 2030 | 2035 | 240 | 2045 |
| Mục tiêu giảm phát thải | -48% | -65% | -88% | -100% | |
| Giảm tiêu dùng năng lượng cuối cùng (so với 2008) | -27% | -39% | |||
| Mục tiêu về NLTT | |||||
| Tỷ lệ NLTT trong Tổng tiêu dùng điện | 58% | 80% | |||
| Tỷ lệ NLTT trong Tổng tiêu dùng sơ cấp | 20% | 40.2% | |||
| Điện mặt trời | 16 GW | 215 GW | 400 GW | ||
| Điện gió ngoài khơi | 0.7 GW | 30 GW | 40 GW | 70GW | |
| Điện gió trên bờ | 2.3 GW | 115 GW | 160 GW |
Phải có khung pháp lý đầy đủ (với bộ tứ: 4 luật cơ bản dưới đây) và được cập nhật, điều chỉnh phù hợp với phát triển của thị trường:
(1) Luật Khí hậu của EU, ban hành mới nhất năm 2021, làm cơ sở để triển khai Chương trình Green Deal – Chuyển đổi xanh trị giá 750 tỷ Euro.
(2) Luật Khí hậu của Đức, ban hành mới nhất năm 2021, ban hành mục tiêu mới giảm KNK 65% năm 2030 và đạt Net Zero năm 2045 (sớm 5 năm so Luật cũ).
(3) Luật phát triển Năng lượng tái tạo (EEG), ban hành mới nhất năm 2022, đặt nền tảng cho các chưong trình chuyển đổi năng lượng với các mục tiêu mới về NLTT.
(4) Luật Hiệu quả Năng lượng, ban hành mới nhất năm 2023, đặt nền tảng cho các với các mục tiêu mới về hiệu quả năng lượng trong chương trình chuyển đổi năng.
Trên cơ sở Khung pháp lý trên, Chính phủ CHLB Đức đã ban hành các chính sách đột phá mạnh mẽ để thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, trong đó có các chính sách tài chính xanh đặc biệt. Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ xin tập trung giới thiêu 2 chính sách tài chính xanh chính là:
a) Chính sách Fit in Tariff (FiT – Hỗ trợ giá bán điện) được triển khai khoảng 20 năm: Năm 2004, tổng mức hỗ trợ FiT được phân bổ lại là 2,4 tỷ euro, với chi phí cho mỗi người tiêu dùng là 0,56 ¢/kWh (3% chi phí điện hộ gia đình). Mức trung bình của biểu giá FiT là 9,53 ¢/kWh vào năm 2005 (so với chi phí hỗ trợ trung bình của Chuyển đổi năng lượng là 4,7 ¢/kWh). Đến năm 2013, con số này đã tăng lên 20,4 tỷ euro. Đến năm 2014, mức hỗ trợ FiT đã tăng lên 6,24 ¢/kWh. Tính đến tháng 7 năm 2014, biểu giá FiT cao nhất dao động từ 3,33 ¢/kWh (4,4 ¢/kWh) đối với thủy điện trên 50 MW đến 12,88 ¢/kWh (17,3 ¢/kWh) đối với lắp đặt năng lượng mặt trời trên các tòa nhà lên đến 30 kWp và 19 ¢/kWh (25,5 ¢/kWh) đối với điện gió ngoài khơi.
b) Chính sách bù giá FiT thực sự đã giúp CHLB Đức thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng xanh, thậm trí còn cho phép Đức đẩy nhanh cam kết Net Zero sớm hơn 5 năm (2045), đảm bảo an ninh năng lượng, giải quyết được vấn đề địa chính trị và giảm mạnh sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, năm 2020, quy mô trợ cấp từ ngân sách cho chuyển đổi năng lượng đã lên đến 35 tỷ euro, một gánh nặng tài chính, ngân sách lớn khi đất nước chìm vào đại dịch Covid, ngoài ra làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Đức (36% DN Đức đánh giá có tác động tiêu cực), Chính sách bù giá FiT còn làm méo mó thị trường điện và gây dư thừa công suất điện NLTT (theo thời điểm), quá tải đường truyền!
c) Chuyển đổi kịp thời sang Chính sách FiT in Premium (FiP – Hỗ trợ giá đấu thầu, tức chuyển từ cơ chế “bao cấp giá” sang cơ chế giá thị trường), bắt đầu từ năm 2020 (xem Nghị định Chính phủ Đức về đấu thầu đổi mới = Innovative Auction – (InnAusV) ban hành ngày 20/01/2020; sửa đổi ngày 16/07/2021. Nghị định này quy định “Đấu thầu đổi mới” là hình thức đấu thầu cạnh tranh giá mà nhà đầu tư phải chào thầu với khoản thưởng thị trường cố định được tính bằng xu trên mỗi Kilowatt giờ. Khoản thưởng thị trường cố định tối đa cho loại hình dự án đầu tư NLTT riêng lẻ tối đa là 3 ¢/kWh và cho loại hình dự án phức hợp (bao gồm cả hệ thống lưu giữ điện năng) là 7 ¢/kWh. Khoản thưởng thị trường cố định được thanh toán trong thời hạn 20 năm kể từ ngày dự án NLTT được đưa vào vận hành thương mại. Nghị định này sẽ hết hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2028.
Các nước như Pháp (từ 2015), Tây Ba Nha (từ 2007 đến 2013) và Nhật bản (từ 2022) đều đã áp dụng Chính sách FiP để thúc đẩy chuyển đổi năng lượng phù hợp với cơ chế thị trường.
Có các chương trình tài chính xanh công (của Chính phủ) và tư nhân (của các định chế tài chính, doanh nghiệp và cá nhân) để thúc đẩy, huy động và tài trợ cho các dự án chuyển đổi năng lượng. Theo tính toán AGORA năm 2024 Đức cần 90 tỷ Euro vốn đầu tư hàng năm cho chuyển đổi năng lượng, chưa kể nhu cầu vốn bổ sung, chưa được lập ngân sách, trong đó tổng vốn đầu tư công (khoảng 39 tỷ EUR tức 43%) và phải huy động đầu tư tư nhân (khoảng 50 tỷ EUR tức 57%)
a) Chính phủ CHLB Đức đã có chương trình phát hành trái phiếu xanh chính phủ (TPX) có quy mô lên đến 58 tỷ euro (năm 2023, vượt qua Pháp đứng đầu thế giới). TPX Chính phủ Đức tập trung tài trợ cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng xanh của các ngành giao thông: 49,7%, năng lượng: 14,6%, nông nghiệp: 3,8%; các dự án chuyển đổi xanh trong hợp tác quốc tế: 23,8%, nghiên cứu công nghệ NLTT, môi trường: 8,1%, trong đó có một phần đáng kể chuyển cho Ngân hàng Phát triển Đức KfW tài trợ chơ các dự án thuộc chương trình chuyển đổi năng lượng trong nước và quốc tế.
b) Bản thân Ngân hàng Phát triển Đức KfW cũng phát hành TPX và tín dụng xanh (TDX) tài trợ chơ các dự án thuộc chương trình chuyển đổi năng lượng trong nước và quốc tế quy mô lên đến 70 tỷ euro. Bên cạnh việc áp dụng chính sách tài chính xanh của Chính phủ như FiT, FiP, KfW còn có chính sách thưởng đối với các dự án NLTT (chủ yếu dành cho doanh nghiệp SMEs và các hộ gia đình là 8.000 euro).
c) Các định chế tài chính Đức đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động và và tài trợ cho các dự án Chuyển đổi năng lượng.
4. Chuyển đổi năng lượng ở Châu Á:
Theo Ủy ban Kinh tế – Xã hội châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP), khu vực hiện đã trở thành “đầu tàu toàn cầu” trong phát triển năng lượng tái tạo. Nhưng cùng với những bước tiến vượt bậc, quá trình chuyển dịch lại vướng phải một “nghịch lý mang tính cơ cấu”, khiến ảnh hưởng tổng thể bị hạn chế.
Từ năm 2013 đến 2023, công suất điện tái tạo lắp đặt tại châu Á tăng gần ba lần, từ 568 GW lên 1.785 GW. Trung Quốc thậm chí đã vượt mục tiêu 2030, khi đạt 1.408 GW công suất điện mặt trời và điện gió vào cuối năm 2024. Bên cạnh đó, Ấn Độ hướng tới mục tiêu 500 gigawatt công suất điện phi hóa thạch vào năm 2030; Việt Nam chứng kiến sự bùng nổ điện mặt trời; còn Lào, cùng Bhutan và Nepal, tiếp tục xuất khẩu thủy điện trong khu vực.
Dù công suất tăng nhanh, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng chỉ đạt 16,3% vào năm 2022. ESCAP lý giải do hai nguyên nhân chính: Nhu cầu năng lượng bùng nổ và sự sụt giảm của sinh khối truyền thống. Kinh tế và dân số tăng nhanh đã đẩy nhu cầu điện, đặc biệt cho công nghiệp và giao thông, vượt xa tốc độ phát triển của năng lượng tái tạo, trong khi nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm ưu thế. Đồng thời, nhiều quốc gia đang phát triển dần bỏ sinh khối (dùng cho nấu nướng, sưởi ấm) để chuyển sang các nguồn năng lượng hiện đại hơn, khiến tỷ trọng tái tạo bị kéo giảm.
Báo cáo nhấn mạnh, quá trình chuyển dịch năng lượng của châu Á đang đối mặt nhiều thách thức, khi 85% tổng cung năng lượng vẫn đến từ dầu mỏ, than đá và khí tự nhiên. Nếu không có biện pháp kiểm soát, mức tiêu thụ những nguồn này dự báo sẽ tiếp tục tăng tới năm 2050, nhất là ở các nền kinh tế đang phát triển, vốn phụ thuộc mạnh vào nhiên liệu nhập khẩu để duy trì tăng trưởng.
5. Kinh nghiệm Chuyển đổi năng lượng của 3 quốc gia có thỏa thuận JETP - Việt nam, Indonesia và Nam phi
Hình 9: Cơ cấu năng lượng của 3 quốc gia tham gia JETP trước khi cam kết thực thi chuyển đổi năng lượng công bằng (năm 2022)

Kinh nghiệm của Indonesia về JETP:
Với cam kết ban đầu là 20 tỷ USD, trong đó 10 tỷ USD tài trợ IPG được cam kết để xúc tác 10 tỷ USD tài trợ tư nhân từ Liên minh Tài chính Glasgow về Net Zero (GFANZ), JETP Indonesia đánh dấu gói tài trợ chuyển đổi năng lượng lớn nhất trên thế giới cho đến nay. Mục tiêu trước mắt của nó là phát triển kế hoạch chính sách và đầu tư toàn diện (CIPP). Nhưng thực tế sau 3 năm triển khai, Indonesia mới phê duyệt được 2 dự án và 46 chương trình (chủ yếu là các hỗ trợ kỹ thuật với tổng giá trị là 1,243 triệu USD (tương đương 6% can kết quốc tế 20 tỷ USD cho Indonesia).
Hình 10: Kết quả thực hiện JETP của Indonesia (2022-2025): giá trị dự án, chương trình được duyệt và các phương án tài chính

Hình 11: Kinh nghiệm phối hợp chính sách theo loại hình dự án và phương án tài chính của Indonesia

Hình 12: Phân loại quy mô hỗ trợ tài chính của các nước IPGs cho Indonesia

Nam phi JETP:
Bảng 4: Nguồn và công cụ tài chính của các nước IPG hỗ trợ tài chính cho Nam phi

Bảng 5: Ưu tiên, loại hình tài chính và đối tương tài trợ quốc tế phân theo các loại hình chuyển đổi năng lượng xanh của Nam phi

Các khuyến nghị và bài học kinh nghiệm thực thi chuyển đổi Năng lượng công bằng (JETP) từ Quỹ FORD tại Hội thảo với 3 nước JETP:
● Thành lập một thực thể hoặc ủy ban riêng biệt để quản lý quá trình chuyển đổi công bằng
● Tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan toàn cầu
● Hợp pháp hóa JETP
● Đánh giá nhu cầu và công cụ tài chính cho việc loại bỏ than và xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo
● Xác định quá trình chuyển đổi công bằng dựa trên bối cảnh quốc gia
● Tăng cường sự tham gia của chính quyền địa phương vào quá trình JETP
● Sự tham gia của các chủ thể phi nhà nước cần được xác định rõ ràng, bao gồm cả các xã hội bị ảnh hưởng
● Cung cấp báo cáo trách nhiệm giải trình để truyền đạt minh bạch tiến độ, thách thức và kết quả của quan hệ đối tác
Bloomberg NEF khuyến nghị chính sách và lộ trình phát thải ròng bằng không của Việt Nam:
| Năng lượng | Công nghiệp | Vận tải | Nông nghiệp và chất thải |
| Thực hiện chương trình Hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) | Khởi động lộ trình quốc gia về khử carbon trong ngành công nghiệp nặng | Thắt chặt các tiêu chuẩn khí thải của xe để đạt được mục tiêu loại bỏ dần | Thực hành nông học |
| Tổ chức đấu thầu cạnh tranh các dự án năng lượng tái tạo | Thực hiện các chính sách cung cầu đối với vật liệu phát thải carbon thấp | Đẩy nhanh việc áp dụng EV thông qua các ưu đãi có mục tiêu | Quản lý chất thải và nguyên liệu |
| Thiết lập khung pháp lý cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi | Thiết lập thị trường carbon được thiết kế tốt cho các nhà phát thải công nghiệp lớn | Tăng tốc độ triển khai các trạm sạc | Giảm bớt áp lực đất đai từ các hoạt động khai thác kim loại quan trọng |
| Công nghệ thay thế: Mở rộng đầu tư lưới điện để hỗ trợ tích hợp năng lượng tái tạo | Thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch trong công nghiệp nhẹ | Kích thích việc hấp thụ nhiên liệu carbon thấp trong hàng không và vận tải biển | |
| Hỗ trợ công suất vững chắc sạch và lưu trữ năng lượng lâu dài | Thiết lập và thực thi các tiêu chuẩn hiệu quả công nghiệp | ||
| Đặt mục tiêu loại bỏ dần cho các nhà máy điện nhiên liệu hóa thạch không suy giảm |
III.Hiện trạng tài chính xanh, thúc đẩy, huy động và tài trợ vốn cho Chuyển đổi năng lượng xanh của Việt nam
1. Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) cuối năm 2024 là bước chuyển sang một khung phát triển năng lượng tái tạo theo định hướng thị trường hơn
Theo báo cáo về NLTT của Việt nam, Fiin Group (Rating Agency) ngày 15/8/2025 nhận định:
Từ giai đoạn tăng tốc triển khai đến điều chỉnh chính sách: Giai đoạn FiT bùng nổ 2019-2021 thúc đẩy tăng trưởng NLTT nhưng gây quá tải lưới, mất cân đối vùng và cắt giảm công suất (2023: 1,6-2 tỷ Kwh). Từ 2021-2024, các dự án chuyển tiếp đình trệ do thiếu cơ chế giá mới. Theo Nghị quyết 233/NĐ-CP, EVN đang xử lý 173 dự án trị giá khoảng 13 tỷ USD thông qua rà soát điều kiện FiT và điều chỉnh giá, làm dấy lên lo ngại giảm doanh thu 25-50% và rủi ro tài chính.
Cơ chế DPPA vẫn chưa có dự án nào do thiếu rõ ràng và trần giá thấp. Thực trạng này cho thấy cần sớm triển khai các cơ chế đấu thầu minh bạch, ổn định và có khả năng tài chính, như đấu giá cạnh tranh hoặc DPPA cải tiến, để khôi phục lại niềm tin thị trường.
Chính sách mở cửa và sự phát triển của thị trường: Việc triển khai cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) cuối năm 2024, cùng với quy định trần giá theo từng loại hình công nghệ, đánh dấu bước chuyển sang một khung phát triển năng lượng tái tạo theo định hướng thị trường hơn, từ đó mở ra lộ trình cho các dự án đang bị đình trệ, báo hiệu sự tái khởi động của dòng vốn đầu tư, đặc biệt trong các lĩnh vực điện mặt trời áp mái, điện gió ngoài khơi và các mô hình kết hợp NLTT với hệ thống lưu trữ.
Áp lực tái cơ cấu: Lượng lớn trái phiếu năng lượng tái tạo đáo hạn trong giai đoạn 2025-2028 buộc các nhà phát triển phải đảm bảo được hợp đồng mua bán điện ổn định và tìm kiếm các kênh huy động vốn thay thế để tránh rủi ro thanh khoản.
Nguồn tài chính xanh tại Việt nam chủ yếu là TDX và TPX:
TDX cho NLTT và năng lượng sạch ở Việt nam sau thời gian bùng nổ 2020-2021 (dư nợ TDX (đạt khoảng 200.000- 230.000 tỷ VNĐ, tương đương khoản gần 10 tỷ USD - tỷ giá bình quân khoảng 23.300 VNĐ/USD, cùng với khoảng 78.000 tỷ trái phiếu cho NLTT, khoảng 3,3 tỷ USD, theo ước tính đã tài trợ khoảng hơn 60% nhu cầu vốn đầu tư cho NLTT giai đoạn này). Tuy nhiên, dư nợ TDX NLTT (cần phân biệt dư nợ và doanh số TDX: khi dư nợ TDX NLTT hầu hết là dài hạn tới 7 năm) đã chững lại sau khi dừng chính sách FiT (tức là dư nợ dài hạn không thay đổi, không/ít phát sinh danh số cho vay TDX NLTT mới), các doanh nghiệp, đặc biệt các RESCO (công ty dịc vụ năng lượng), hộ gia đình vay vốn TDX hoặc phát hành TPX đều gặp khó khăn nghiêm trọng về thanh khỏan và trả nợ, phải lùi, hoãn thanh toán TPX NLTT (xem thêm Hình 13 và Hình 17). Ngân hàng cũng gặp khó khăn, không thu hồi được nợ TDX NLTT.
Hình 13: Dư nợ Tín dụng xanh cho NLTT và Năng lượng sạch

Từ năm 2024 - đầu 2025, TDX cho NLTT đã phát sinh thêm dư nợ nhưng không đáng kể, và không ổn định. Tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh cho NLTT và năng lượng sạch trên tổng dư nợ tín dụng xanh của Việt nam từ đỉnh 49% tiếp tục giảm mạnh xuống 37% (2024) và 39% (quý II/2025) quy ra dư nợ khoảng 284.000 tỷ VND (tương đương khoảng 10,9 tỷ USD).
Tỷ lệ dư nợ TDX cho NLTT – NLS so với GDP, theo tính toán của tác giả cũng đã tăng mạnh từ khoảng 0,1-0,2% GDP (2017/2018) lên 2,6% (2022) và lần đầu tiên đã giảm xuống 2,4% GDP và giữ ở mức này cuối 2024.
Hình 14: Tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh cho NLTT và năng lượng sạch trên tổng dư nợ tín dụng xanh của Việt nam

Hình 15: Tỷ lệ dư nợ tín dụng xanh cho NLTT và năng lượng sạch trên GDP của Việt nam

Trên toàn cầu, TPX là công cụ tài chính chủ yếu để huy động và tài trợ cho chuyển đỏi năng lượng xanh, phát triển NLTT; nhưng ở Việt Nam TPX cho NLTT còn rất khiêm tốn. Giai đoạn 2019-2021, trái phiếu cho NLTT có quy mô khoảng 78.000 tỷ trái phiếu cho NLTT, khoảng 3,3 tỷ USD, nhưng đây là các TPDN phát hành không theo chuẩn mực TPX và không thuộc danh mục phân loại xanh. Sau khi dừng chính sách FiT, quy mô TPDN cho NLTT đã giảm mạnh về mức không còn đáng kể, chưa đến 1,5% tổng dư nợ TPDN và chỉ tương đương 0,02-0,04% GDP. Số liệu TPDN năm 2024 trong Hình 16 là giá trị TPX phát hành năm 2024, trong đó có cho NLTT.
Hình 16: Phát hành trái phiếu cho các dự án năng lượng xanh, NLTT, (2024: là TPX)

Hình 17: Giá trị đáo hạn gốc trái phiếu năng lượng tái tạo (tỷ VND)

Theo đánh giá của Fiin Group, phần lớn dự án NLTT chuyển tiếp mới chỉ đạt được mức giá bán tạm thời bằng khoảng 50% mức trần mới. Ngay cả khi giá bán đạt 70% mức cao nhất (1.987,4 VND/kWh) trong điều kiện vận hành tối ưu, IRR ước tính của dự án chỉ khoảng 3% trong 15 năm, không đủ để bù đắp chi phí nợ dài hạn 10%. Nợ sắp đáo hạn tập trung, nhiều trái phiếu năng lượng tái tạo được tái cơ cấu giai đoạn 2023-2024 đã phải gia hạn thêm 2 năm, dồn phần lớn gốc đáo hạn vào giai đoạn 2025-2028, với tổng giá trị trên 20 nghìn tỷ VND, gây áp lực tái cấp vốn rất lớn. Nếu thiếu cơ chế giá ổn định và dài hạn, các chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn lớn trong việc huy động vốn mới, gia tăng rủi ro chậm trả hoặc vỡ nợ, khó tiếp cận vốn vay. Thiếu cơ chế giá cụ thể sẽ làm giảm khả năng vay vốn TDX hoặc phát hành TPX với chi phí hợp lý và sức hút đầu tư mới, đặc biệt từ các tổ chức tài chính.
Mô hình thương mại & PPP: Các khoản vay ngân hàng với lãi suất 8-10% dành cho dự án có cấu trúc tốt và PPA đảm bảo; mô hình PPP/BOT thường có cơ cấu 20-25% vốn chủ sở hữu và 75-80% vốn vay. Tuy nhiên, thách thức về khả năng huy động vốn vẫn tồn tại do chính sách giá thiếu ổn định, tình trạng nghẽn lưới và rủi ro cắt giảm công suất, cùng sự chênh lệch tiền tệ giữa khoản vay bằng USD và doanh thu bằng VND. Nếu không đẩy nhanh đầu tư – đặc biệt vào hạ tầng truyền tải – các dự án điện mới có nguy cơ “mắc kẹt” do nút thắt lưới điện, làm suy giảm an ninh năng lượng và ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu giảm phát thải.
Quyết sách tài chính xanh mới của Việt nam:
Bên cạnh NQ 70/TW, Bộ Chính trị đã có NQ 68/TW về phát triển kinh tế tư nhân và đặc biệt Quốc hội và Chính phủ đã có các nghị quyết 198/NQ-QH và 139/NQ-CP ban hành ngày 17/5/2025 để thực thị NQ 68/TW về chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho các dự án xanh, tuần hoàn và ESG của doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước được Chính phủ giao và đã có dự thảo Nghi định để trình Chính phủ ban hành trong 2025.
Khi áp dụng chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho các dự án năng lượng xanh, có thể coi đây là hình thức chuyển chính sách tài chính từ bù giá bán điện FiT qua quy định trần đối với giá bán điện NLTT sang chính sách bù lãi xuất tín dụng các dự án chuyển đổi năng lượng, NLTT.
IV. Khuyến nghị và gợi ý cho Việt nam
Nhanh chóng bổ sung một chương danh mục phân loại xanh cho các dự án chuyển đổi xanh, với trọng tâm là chuyển đổi năng lượng xanh cho các ngành sử dụng nhiều năng lượng và phát thải lớn như sau:
Chuyển đổi xanh với nhiệt điện (sang sử dụng hydrogen xanh, ammoniac…)
Chuyển đổi xanh với điện than (sang sử dụng hydrogen xanh, ammoniac…)
Chuyển đổi xanh đối với xi măng
Chuyển đổi xanh đối với sắt thép
Chuyển đổi xanh đối với thủy sản, cấp thải nước,
Chuyển đổi xanh đối với luyện kim, chế biến khoáng sản (ví dụ: nhôm, đất hiếm…)
Bên cạnh đó, nên cân nhắc bổ xung thêm điện hạt nhân vào danh mục phân loại xanh với các tiêu chí NO HARM cần thiết.
Khuyến nghị áp dụng cơ chế FiP:
Việc áp dụng bù giá FiT thực sự là một chính sách đột phá, dễ áp dụng, có tác động mạnh, nhanh để giúp sớm đạt được mục tiêu gia tăng công xuất NLTT, nhưng như kinh nghiệm của thế giới, Đức và cả tại Việt nam FiT giống như cơ chế “Xin-Cho” có phản tác dụng như gánh nặng tài chính lớn giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm méo mó thị trường điện và gây dư thừa công suất điện NLTT (theo thời điểm), quá tải đường truyền !
Việc áp dụng cơ chế giá trần chỉ có tác dụng hạn chế EVN phải chi trả mua điện với giá thấp từ các nhà đầu tư NLTT trong khi giá bán điện tiêu dùng bị nhà nước khống chế, làm giảm năng lực tài chính để tái đầu tư. Cơ chế này giống như cơ chế áp giá trần thời kế hoạch hóa trước đây, chắc chắn sẽ là rào cản lớn nhất đối với đầu tư chuyển đổi năng lượng xanh, thực thi NQ 70/TW và Kế hoạch QHĐ 8.
Cơ chế bù lãi suất cho tư nhân đầu tư dự án xanh (NQ 198/NQ-QH và 139/NQ-CP) là một cơ chế tài chính mạnh, nếu các tiêu chí xanh bảo đảm dòng vốn vào đúng mục tiêu, nhưng nếu triển khai quy mô lớn sẽ là gánh nặng ngân sách lớn và có tác dụng tiêu cực là méo mó thị trường.
Tuy Việt Nam chưa có thị trường điện bán lẻ, nhưng thị trường điện bán buôn (nhất là NLTT) đã hình thành và từng bước phát triển theo QHĐ 8 và định hướng của NQ 70/TW; cũng như cần có chính sách tài chính đột phá để khuyến khích, đặc biệt khu vực tư nhân (cần đến 76% vốn đầu tư) cho chuyển đổi năng lượng và phát triển NLTT. Việt nam có thể cân nhắc đưa chính sách FiP vào áp dụng phù hợp với điệu kiện thị trường điện của Việt nam.
Khuyến nghị xây dựng các chương trính tài chính xanh:
Từ kinh nghiệm của thế giới, như ở CHLB Đức, cả Chính phủ và khu vực tài chính, ngân hàng nên có các chương trình tài chính xanh (TDX và/hoăc TPX) để tài trợ chuyển đổi năng lượng.
Các chương trình tài chính xanh có thể dựa trên điều kiện thị trường để phát hành TPX và huy động nguồn vốn cho TDX, nhưng nên kết hợp với chính sách thưởng theo kết quả chuyển đổi (resul based premium/bonus) như kết quả giảm phát thải, đóng góp vào chuyển đổi xanh.
(*) TS. Nguyễn Thanh Hải, Chuyên gia Kinh tế Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ)
Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo ‘Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị’
Nhằm góp phần tuyên truyền, làm rõ định hướng phát triển năng lượng xanh, chuyển đổi năng lượng xanh, bền vững theo Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, và mục tiêu Net Zero năm 2050, ngày 30/10 tại Hà Nội, Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị”.
Sự kiện là diễn đàn để các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, nhà đầu tư chia sẻ chiến lược về phát triển năng lượng xanh, chuyển đổi năng lượng xanh, đề xuất các chính sách nhằm phát triển bền vững lĩnh vực này.
Hội thảo có sự tham dự của lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành trung ương, chuyên gia kinh tế - tài chính, lãnh đạo các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, cùng các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng.
- Cùng chuyên mục
Kinh nghiệm quốc tế về tài chính xanh thúc đẩy chuyển đổi năng lượng xanh
Từ kinh nghiệm của thế giới, cả Chính phủ và khu vực tài chính, ngân hàng nên có các chương trình tài chính xanh để tài trợ chuyển đổi năng lượng xanh, dựa trên điều kiện thị trường nhưng nên kết hợp với chính sách thưởng theo kết quả chuyển đổi.
Tài chính - 29/10/2025 07:00
Giải bài toán phát triển thị trường tài chính xanh
Thúc đẩy dòng vốn xanh là yếu tố then chốt để hiện thực hóa chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững quốc gia của Việt Nam.
Tài chính - 29/10/2025 07:00
Lạm phát thấp hơn kỳ vọng, Fed có thể tiếp tục giảm lãi suất
Việc lạm phát ở dưới mức dự báo mở ra khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục giảm lãi suất thêm 2 lần nữa trong năm nay.
Tài chính - 29/10/2025 06:49
Chuyên gia KIS Việt Nam: 'Thị trường chứng khoán đang ở vùng giá rất hợp lý để đầu tư'
Ông Trương Hiền Phương – Giám đốc cấp cao CTCP Chứng khoán KIS Việt Nam cho rằng vùng giá hiện tại của VN-Index là rất hợp lý để nhà đầu tư có thể giải ngân dần vào những cổ phiếu có KQKD quý III/2025 tốt, có sự tăng trưởng qua các quý.
Tài chính - 28/10/2025 16:08
VN-Index hồi mạnh, nhóm Vingroup được kéo tăng từ giá sàn
VN-Index phục hồi gần 60 điểm tính từ đáy trong phiên 28/10. Một trong động lực là nhóm Vingroup được kéo tăng từ mức giá sàn.
Tài chính - 28/10/2025 15:42
Nhờ đâu lợi nhuận tích lũy Novaland tăng dù chưa thoát lỗ?
Lợi nhuận tích lũy của Novaland tăng thêm hơn 400 tỷ đồng dù báo cáo kinh doanh ghi nhận lỗ. Trong kỳ, tập đoàn đã chuyển nhượng vốn của nhiều công ty con.
Tài chính - 28/10/2025 14:13
Những động lực giúp Masan Group lãi đột biến
Hoạt động kinh doanh của hầu hết đơn vị thuộc Masan Group đều cải thiện. Trong đó, WinCommerce, Masan MEATLife thoát lỗ và Masan High-Tech Materials giảm lỗ đáng kể.
Tài chính - 28/10/2025 13:20
Kỳ vọng nhiều lĩnh vực hưởng lợi từ khung thỏa thuận thương mại Việt Nam và Mỹ
Theo các chuyên gia, một số ngành hàng như nông sản, thủy hải sản, dệt may được kỳ vọng có thể nằm trong danh mục hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Ngoài ra, còn có các sản phẩm liên quan đến an ninh chiến lược, chuỗi cung ứng then chốt như linh kiện bán dẫn, thiết bị viễn thông, khoáng sản...
Tài chính - 28/10/2025 12:16
Lợi nhuận bứt phá, GELEX vượt kế hoạch năm chỉ sau 9 tháng
Lũy kế 9 tháng, GELEX đạt 3.443 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 51,7% so với cùng kỳ và vượt 13,2% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
Tài chính - 28/10/2025 09:32
Bán cổ phiếu VHM, TCB, một doanh nghiệp bất động sản vượt kế hoạch lợi nhuận
Không phải nhờ bán dự án hay bứt tốc từ thị trường địa ốc, lợi nhuận quý III/2025 của Nhà Đà Nẵng lại "nhảy vọt" nhờ hoạt động đầu tư chứng khoán.
Tài chính - 28/10/2025 06:45
Chứng khoán VIX muốn tăng vốn và nâng thêm kế hoạch lãi lên 6.500 tỷ
Chứng khoán VIX muốn chào bán 919 triệu cổ phiếu cho cổ đông với giá 12.000 đồng/cp, vốn điều lệ dự kiến nâng lên 24.502 tỷ đồng.
Tài chính - 27/10/2025 14:07
Sự trở lại của Bimico
Lợi nhuận Bimico tăng mạnh trở lại trong 9 tháng. Động lực đến từ mảng đá xây dựng khi mỏ Tam Lập 3 đi vào hoạt động và các mỏ khác chạy hết công suất.
Tài chính - 27/10/2025 08:33
- Đọc nhiều
-
1
Đằng sau bản hợp đồng tài trợ gần 600 tỷ đồng của FPT cho Chelsea
-
2
Thủ tướng: Không để người mua nhà ở xã hội phải 'chen chúc, chạy vạy'
-
3
Chứng khoán VIX muốn tăng vốn và nâng thêm kế hoạch lãi lên 6.500 tỷ
-
4
Bộ Nội vụ, Ngoại giao, NN&MT có tân Bộ trưởng
-
5
Ông Lê Quang Mạnh giữ chức Tổng Thư ký Quốc hội
Đáng đọc
- Đáng đọc
Gần 1 tỷ USD trái phiếu 'chảy về' một Group
Tài chính - Update 5 day ago
Nhóm vật liệu xây dựng nào sẽ phục hồi rõ nét hơn dịp cuối năm?
Thị trường - Update 1 week ago

















