Công ty chứng khoán 'thắng lớn' quý đầu năm

Nhàđầutư
Nhiều công ty chứng khoán công bố ước lợi nhuận gấp nhiều lần cùng kỳ năm trước nhờ vào diễn biến tích cực của thị trường trong quý đầu năm.
TƯỜNG NHƯ
14, Tháng 04, 2024 | 08:36

Nhàđầutư
Nhiều công ty chứng khoán công bố ước lợi nhuận gấp nhiều lần cùng kỳ năm trước nhờ vào diễn biến tích cực của thị trường trong quý đầu năm.

Empty

Thị trường chứng khoán cải thiện về cả điểm số và thanh khoản trong quý I. Ảnh minh họa: Trọng Hiếu

Trong quý đầu năm, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến rất tích cực. VN-Index tăng từ vùng 1.140 điểm lên 1.280 điểm, tương ứng với mức tăng 12,2%. Đây là mức tăng vượt trội so với các thị trường trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Singapore, Bangladesh… Động lực chính đến từ tín hiệu phục hồi từ nền kinh tế vĩ mô, GDP tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng trong quý I của 4 năm gần nhất.

Đồng thời, TTCK cũng ghi nhận thanh khoản phục hồi mạnh mẽ. Thống kê của HoSE cho thấy thanh khoản cải thiện qua từng tháng trong quý I, như tháng 1 giao dịch bình quân 16.531 tỷ đồng, tháng 2 đạt 25.670 tỷ đồng và qua tháng 3 là 26.495 tỷ đồng mỗi ngày.

Diễn biến này giúp nhiều công ty chứng khoán khi nhận kết quả kinh doanh rất khả quan. Ông Nguyễn Miên Tuấn, Chủ tịch HĐQT Công ty chứng khoán Rồng Việt (mã: VDS) công bố doanh thu quý I ước đạt 283 tỷ đồng, tăng 88% so với cùng kỳ năm trước; lãi sau thuế 110 tỷ đồng, gấp đôi quý I/2023 và thực hiện 38% kế hoạch năm.

Chứng khoán Vietcap (mã: VCI) ước đạt 220 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế quý đầu năm, tương đương 31,4% kế hoạch năm và gấp 2,7 lần cùng kỳ 2023.

Chứng khoán Kỹ thương (TCBS) công bố doanh thu hoạt động 1.694 tỷ đồng và lãi trước thuế 1.160 tỷ đồng, lần lượt tăng 82% và 159% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, mảng kinh doanh nguồn vốn và phân phối trái phiếu đóng góp lớn nhất và cũng ghi nhận mức tăng trưởng 122% với 729 tỷ đồng. Mảng môi giới và lưu ký chứng khoán đóng góp 159 tỷ đồng, tăng 65%.

Công ty cho biết thị trường trái phiếu quý I có sự sôi động trở lại với tổng giá trị phát hành hơn 22.000 tỷ đồng, TCBS tư vấn thành công 15.000 tỷ đồng, chiếm thị phần gần 70%. Nhu cầu huy động vốn trái phiếu của doanh nghiệp vẫn ở mức cao.

Nhiều đơn vị khác công bố lợi nhuận tăng trưởng như Chứng khoán MB (mã: MBS) ước lãi 230 tỷ đồng, tăng 51%; Chứng khoán DSC (mã: DSC) dự kiến lãi 74 tỷ đồng, gấp hơn 5 lần cùng kỳ…

Đón đầu kết quả kinh doanh, hàng loạt cổ phiếu chứng khoán tăng giá mạnh tính từ đầu tháng 11 năm ngoái. Mã chứng khoán MBS tăng từ vùng 16.000 đồng/cp lên 30.800 đồng/cp vào cuối quý I và có sự điều chỉnh nhẹ trong nửa đầu tháng 4. VCI tăng từ vùng 33.000 đồng/cp lên 52.000 đồng/cp, HCM tăng từ 17.000 đồng/cp lên 29.500 đồng/cp, SSI tăng 44% lên 37.500 đồng/cp…

Theo nhiều chuyên gia, thị trường chứng khoán sẽ diễn biến tích cực trong năm nay. Động lực đến từ giải ngân đầu tư công có thể đạt mức cao lịch sử năm nay, lãi suất thấp, kinh tế phục hồi, Fed dự kiến giảm lãi suất từ nửa cuối năm nay và câu chuyên nâng hạng thị trường cùng hệ thống KRX đi vào vận hành.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, thị trường đang gặp áp lực điều chỉnh do đã có chuỗi tăng mạnh 5 tháng qua và áp lực tỷ giá. Mặt khác, Bộ phân phân tích Chứng khoán Rồng Việt cho rằng định giá thị trường – PE hiện đã lên 14,9 lần, tương đối sát với PE mục tiêu 15x. Trong trường hợp kết quả kinh doanh quý I của doanh nghiệp phục hồi tích cực trở lại trong kỳ công bố sắp tới đây, PE có thể điều chỉnh giảm và điểm số thị trường tăng trở lại.

Trong tháng 4, chuyên gia VDS khuyến nghị nhà đầu tư nên đưa trạng thái danh mục về mức an toàn, theo hướng giảm sử dụng đòn bẩy và chốt lời những cổ phiếu nắm giữ đã đạt trạng thái lợi nhuận tốt. Những thông tin cần quan tâm là kết quả kinh doanh quý I, mùa đại hội cổ đông và diễn biến tỷ giá.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ