Chủ tịch UBCKNN: 'Chứng khoán tăng nhanh là có cơ sở'

Nhàđầutư
Trả lời câu hỏi "Thị trường chứng khoán cho thấy dấu hiệu tăng trưởng nóng", ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho rằng, việc thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng nhanh hay gọi là nóng trong khoảng thời gian cuối năm 2020 là có cơ sở.
N.THOAN
19, Tháng 01, 2021 | 11:43

Nhàđầutư
Trả lời câu hỏi "Thị trường chứng khoán cho thấy dấu hiệu tăng trưởng nóng", ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho rằng, việc thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng nhanh hay gọi là nóng trong khoảng thời gian cuối năm 2020 là có cơ sở.

20210119_112301

Ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch UBCKNN phát biểu tại họp báo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước năm 2021.

Chia sẻ thông tin tại buổi gặp mặt báo chí đầu năm 2021, trả lời câu hỏi liên quan tới việc thị trường chứng khoán Việt Nam tăng nóng trong khoảng cuối năm 2020, ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch UBCKNN khẳng định: Ưu tiên của Uỷ ban Chứng khoán là giữ cho được 1 môi trường thực sự minh bạch. Vì thế điều quan trọng là có cơ sở pháp lý chắc chắn, liên tục cải tiến trong áp dụng luật cùng với đó là điều hành thị trường chủ động, linh hoạt, thực thi thanh tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của thị trường.

"Thời gian qua do sự phát triển rất nhanh, thậm chí nóng của thị trường gây ra hiện tượng nghẽn lệnh của HoSE. UBCKNN đã báo cáo Bộ Tài chính để đưa giải pháp nhưng đáng tiếc là mới chỉ là những giải pháp tạm thời. Việc nâng lô cổ phiếu từ 10 lên 100 để giảm bớt lượng lệnh trên thị trường là hành động sớm hơn dự kiến ", ông Dũng nói.

Ông Dũng cho biết, hiện nay thị trường chứng khoán ghi nhận nhiều cái nhất: Nhất về thanh khoản, nhất về tài khoản mở mới.... "Một số chuyên gia cảnh báo thị trường đang tăng trưởng nóng. Tuy nhiên, xét trên các điều kiện vĩ mô thì thanh khoản tăng như vậy là có cơ sở", ông Dũng nhấn mạnh.

Theo đó, ông Dũng cho rằng, các điều kiện cụ thể cho thấy thị trường tăng trưởng nóng nhưng có cơ sở là: Dịch bệnh COVID-19 đã khá rõ ràng, thể hiện đúng quyết tâm của Chính phủ từ đầu năm là quyết tâm duy trì mục tiêu kép, vừa chống dịch, vừa tăng trưởng kinh tế. Càng về cuối năm niềm tin vào mục tiêu kép càng trở nên rõ ràng tác động tích cực tới tâm lý thị trường.

"Cùng với đó, hiện tượng thị trường chứng khoán tăng trưởng nhanh và mạnh là xu hướng chung của thị trường thế giới. Nhiều thị trường chứng khoán đạt đỉnh mọi thời đại. Đây cũng là xu hướng dễ hiểu khi lãi suất xuống thấp. Xét tương quan trong khu vực, nhiều thị trường không có độ phục hồi như Việt Nam nhưng tăng trưởng của thị trường chứng khoán của họ vẫn cao hơn của Việt Nam", ông Dũng chia sẻ.

Tuy nhiên, Chủ tịch UBCKNN cũng lưu ý rằng, thị trường chứng khoán Việt Nam đã phục hồi trên 70% so với mức đáy tháng 3-4/2020 nên có thể thấy thị trường đã phát triển rất mạnh. Sang tới năm 2021 còn nhiều bất định nên các nhà đầu tư cần xem xét cẩn trọng tất cả các bối cảnh vĩ mô, diễn biến của đại dịch COVID-19, tình hình thực tế từng doanh nghiệp để đưa quyết định sáng suốt nhất.

Trước thông tin cho rằng trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ siết dòng vốn cho vay chứng khoán trong thời gian tới? Ông Dũng khẳng định, Ngân hàng Nhà nước sẽ không siết thêm các điều kiện cho vay chứng khoán vì hiện quy định cho vay của NHNN vào thị trường chứng khoán đã là rất chặt chẽ. UBCKNN kỳ vọng NHNN có thể nới thêm các điều kiện cho vay chứng khoán trong năm 2021.

Phân tích thêm nguyên nhân, ông Dũng cho biết, hiện nay lượng vốn NHNN cho vay cá nhân và công ty chứng khoán để cho vay margin chiếm tỷ trọng cực nhỏ trong tổng cung tín dụng, chỉ khoảng 0,3%. Tỷ lệ nợ xấu trên các khoản vay cá nhân cũng đang rất thấp.

Cùng với đó, margin trong thời điểm tháng 7-8 có tăng mạnh nhưng mức tăng margin vẫn thấp hơn thanh khoản của thị trường chứng khoán. Vì vậy, ông Dũng cho rằng điều này là bình thường và qua kiểm tra hoạt động cho vay margin của các công ty chứng khoán đã tốt hơn, tuân thủ các quy định luật pháp. 

Thông tin thêm về việc nâng hạng thị trường của Việt Nam trong thời gian tới, ông Dũng cho biết đã có lộ trình rõ ràng, tuy nhiên, nhanh thì năm 2022 UBCKNN mới xử lý được những vấn đề mà nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng. Như vậy, đến năm 2023 - 2024 mới thực hiện được mục tiêu nêu trên.

Năm 2020, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng ấn tượng với chỉ số VN Index vượt 1.100 điểm, đạt 1103,87 điểm, tăng mạnh tới 67% so với thời điểm thấp nhất trong năm 2020, tăng 14,9% so với thời điểm cuối năm 2019; chỉ số HNX Index tăng gần 119% so với thời điểm cuối Quý I/2020 và tăng 98,1% so với cuối năm 2019.

Quy mô thị trường cổ phiếu và trái phiếu đã phục hồi mạnh, quy mô vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt gần 5.294 nghìn tỷ đồng, tăng 69% so với thời điểm cuối quý I và tăng 20,8% so với cuối năm 2019, tương đương 87,7% GDP năm 2019 và 84,1% GDP năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. Thị trường trái phiếu có 477 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.388 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8% so với cuối năm 2019 (tương đương 23% GDP).

Thanh khoản của thị trường tăng mạnh lên mức cao kỷ lục. Trên thị trường cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân năm 2020 đạt trên 7.420 tỷ đồng/phiên, tăng 59,3% so với bình quân năm 2019. Tính riêng trong quý 4, giá trị giao dịch bình quân đạt 11.593 tỷ đồng/phiên, tăng 2,5 lần so với quý I/2020 và so với cuối năm 2019. Thanh khoản trên thị trường trái phiếu tiếp tục tăng trưởng mạnh, bình quân trên 10.393 tỷ đồng/phiên, tăng 13% so với năm 2019.

Số lượng tài khoản nhà đầu tư trong nước mở mới tăng kỷ lục trong năm 2020. Số tài khoản nhà đầu tư trong nước mở mới trên thị trường Việt Nam đạt gần 394 nghìn tài khoản, tăng 109% so với số lượng tài khoản mở mới trong năm 2019, khối ngoại mở mới 2.856 tài khoản. Tổng số lượng tài khoản chứng khoán tại Việt Nam đạt hơn 2,77 triệu tài khoản, tăng 16,7% so với cuối năm 2019.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ