Chủ tịch Hà Đô Group: ‘Chưa bao giờ có chiến lược rõ ràng như bây giờ’

Nhàđầutư
Năm 2024, tập đoàn đề ra kế hoạch lợi nhuận hợp nhất tăng trưởng khoảng 20 - 25% so với năm trước, tập trung vào 2 mảng năng lượng và bất động sản, tăng cường M&A, đầu tư dự án khu công nghiệp.
MỸ HÀ
15, Tháng 02, 2024 | 14:20

Nhàđầutư
Năm 2024, tập đoàn đề ra kế hoạch lợi nhuận hợp nhất tăng trưởng khoảng 20 - 25% so với năm trước, tập trung vào 2 mảng năng lượng và bất động sản, tăng cường M&A, đầu tư dự án khu công nghiệp.

hdg-a

Dự án Hado Green Villas. Nguồn: Hà Đô Group

Tại buổi lễ tổng kết năm 2023 và kế hoạch năm 2024 ngày 5/2, ông Nguyễn Trọng Thông, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hà Đô (mã: HDG) bày tỏ “chưa bao giờ Hà Đô có được chiến lược rõ ràng như bây giờ, từ HĐQT đến Ban điều hành đều có định hướng dài hạn trong 5 năm tới. Đồng thời, tập đoàn cũng xác lập lại cơ cấu tổ chức một cách đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả”.

Cụ thể, nhằm tinh gọn bộ máy, giảm bớt chi phí vận hành nhưng vẫn đảm bảo các mục tiêu phát triển trung dài hạn, Hà Đô đã quyết định giải thể chi nhánh miền Nam. Thay vào đó, 4 đơn vị thành viên là các công ty hoạt động trong lĩnh vực bất động sản tại TP.HCM sẽ được tăng cường hơn trọng trách phát triển các dự án mới tại khu vực này.

Đồng thời, tập đoàn tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số thông qua việc chính thức vận hành hệ thống văn phòng điện tử, góp phần rút ngắn thời gian, khoảng cách trong công tác giải quyết công việc giữa các phòng ban, tạo thuận tiện trong việc theo dõi, phê duyệt và tra cứu hồ sơ lưu trữ có hệ thống, khoa học.

Hà Đô hoạt động trong 3 lĩnh vực chính gồm bất động sản, xây dựng và năng lượng điện. Mảng bất động sản cho ra sản phẩm là khu đô thị mới, nhà thấp tầng, chung cư, văn phòng cho thuê, khách sạn ở Hà Nội và TP.HCM. Mảng xây dựng chủ yếu công trình dân dụng, giao thông với khách hàng là cơ quan hưởng Ngân sách Nhà nước, Bộ Quốc Phòng và tập đoàn lớn. Ở mảng năng lượng, doanh nghiệp sở hữu 5 nhà máy thủy điện, 2 nhà máy điện mặt trời và 1 nhà máy điện gió với tổng công suất 462 MW.

Trước đây, mảng bất động sản mang lại doanh thu và lợi nhuận chính nhưng từ 2022 mảng năng lượng tăng tốc. Đến năm 2023, Hà Đô (HDG) ghi nhận doanh thu hợp nhất 2.882 tỷ đồng, giảm 20% so với 2022. Do công ty bị hụt thu ở mảng kinh doanh bất động sản, doanh thu giảm mạnh từ 1.112 tỷ đồng xuống 282 tỷ đồng. Mảng năng lượng giảm 8% xuống 1.939 tỷ đồng và đóng góp 67% tổng doanh thu. Lợi nhuận ròng 711 tỷ đồng, giảm 35%.

Trong 2022 và 2023, trước diễn biến đi xuống của thị trường bất động sản, Hà Đô gần như chững lại không đầu tư thêm các dự án bất động sản mới mà chỉ tập trung hoàn thiện dự án Hado Charm Villas.

Trong năm nay, lãnh đạo tập đoàn cho biết định hướng phát triển trọng tâm vào lĩnh vực bất động sản và năng lượng, đẩy mạnh M&A các dự án mới. Bên cạnh việc tiếp tục triển khai M&A các dự án bất động sản khu đô thị, tập đoàn sẽ đẩy mạnh đầu tư các dự án khu công nghiệp tại các tỉnh miền Bắc (Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Quảng Ninh...), mở rộng lĩnh vực hoạt động kinh doanh, tạo động lực tăng trưởng trong giai đoạn tiếp theo.

Đồng thời, xác định năm 2024 còn những diễn biến khó lường của các biến số kinh tế thế giới cũng như trong nước, tập đoàn đề ra kế hoạch lợi nhuận hợp nhất với mức tăng trưởng khoảng 20 - 25% so với năm 2023.

Về mặt tài chính, năm qua Hà Đô đã giảm được gần 700 tỷ đồng nợ vay xuống 5.426 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu ở mức 74%.

Tập đoàn cho biết dự nợ vay hơn 5.000 tỷ đồng là từ các dự án năng lượng. Hà Đô xác định phải giảm bớt chi phí để mang lại hiệu quả đầu tư tốt hơn, rút ngắn thời gian hoàn vốn. Do vậy, doanh nghiệp đã đàm phán với tổ chức tín dụng để giảm chi phí lãi vay, đặc biệt là dự án có dư nợ lớn. Điển hình dự án Thủy điện Nhạc Hạc với biên độ giảm còn khoảng 1,3%/năm, Thủy điện Đăkmi 2 xuống 2,2%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ