Chủ tịch BIDV: 'Đã có nhà đầu tư tiềm năng mua 9% cổ phần phát hành riêng lẻ'

Nhàđầutư
Chủ tịch BIDV Phan Đức Tú cho biết, đã có một số nhà đầu tư tiềm năng để phát hành riêng lẻ 9% cổ phần. Năm 2023, BIDV đặt mục tiêu tăng vốn điều lệ lên 61.557 tỷ đồng.
ĐÌNH VŨ
28, Tháng 04, 2023 | 14:33

Nhàđầutư
Chủ tịch BIDV Phan Đức Tú cho biết, đã có một số nhà đầu tư tiềm năng để phát hành riêng lẻ 9% cổ phần. Năm 2023, BIDV đặt mục tiêu tăng vốn điều lệ lên 61.557 tỷ đồng.

bidv-DHDCD-2023

ĐHĐCĐ thường niên BIDV năm 2023.

Ngày 28/4, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã tổ chức thành công ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 thông qua kế hoạch kinh doanh năm 2023 và kế hoạch tăng vốn lên 61.500 tỷ đồng.

Theo đó, Đại hội đã thông qua kế hoạch lợi nhuận trước thuế tăng 10-15%, phù hợp với diễn biến thị trường. Dư nợ tín dụng tăng trưởng đảm bảo tuân thủ giới hạn tín dụng do NHNN giao. Tỷ lệ nợ xấu không quá 1,4%.

Đại hội cũng thông qua phương án chi trả cổ tức từ lợi nhuận còn lại năm 2022 với tỷ lệ 23% bằng cổ phiếu.

Năm 2023, BIDV dự kiến phát hành 1,097 tỷ cổ phiếu để tăng vốn điều lệ lên 61.557,1 tỷ đồng theo 2 phương thức: Phát hành 641,9 triệu cổ phiếu để trả cổ tức năm 2021 với tỷ lệ 12,69%; đồng thời phát hành thêm 455,2 triệu cổ phiếu mới thông qua chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng lẻ (theo phương án đã được ĐHĐCĐ thường niên năm 2022 thông qua).

Toàn bộ phần vốn tăng thêm sẽ được dùng để bổ sung vốn kinh doanh, sử dụng cho các hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư; đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, phát triển sản phẩm dịch vụ mới, ngân hàng số.

Ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV cho biết, ngân hàng này đã có tiếp xúc với 38 nhà đầu tư liên quan tới kế hoạch phát hành riêng lẻ 9% cổ phần mà ĐHĐCĐ thường niên năm 2022 đã thông qua. Tuy nhiên, bối cảnh tình hình kinh tế không thuận lợi đã thu hẹp khẩu vị rủi ro, hạn chế khả năng mở rộng đầu tư của họ vào Việt Nam. Năm 2023, BIDV sẽ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này. Hiện, đã có một số nhà đầu tư tiềm năng, BIDV sẽ làm việc với NHNN, các đối tác để tìm kiếm nhà đầu tư phù hợp nhất.

Tại Đại hội, ngân hàng cũng thông qua việc bầu ông Đặng Văn Tuyên giữ chức Thành viên HĐQT BIDV nhiệm kỳ 2022 – 2027 thay bà Nguyễn Thị Thu Hương – Thành viên HĐQT (đại diện 30% vốn nhà nước tại BIDV) đã nghỉ hưu từ tháng 11/2022. 

Ông Đặng Văn Tuyên sinh năm 1973, có trình độ Cử nhân Luật, Cử nhân Tài chính – Ngân hàng. Ông Tuyên bắt đầu công tác tại  Ngân hàng Trung ương từ tháng 4/1996 và được bổ nhiệm vị trí Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ NHNN từ tháng 2/2020.

Trả lời câu hỏi của cổ đông liên quan tới kế hoạch kinh doanh thời gian tới, ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT ngân hàng đánh giá, năm 2023, triển vọng ngành ngân hàng bắt đầu đi vào xu thế ổn định sau khi các quy định của NHNN ngày càng chặt chẽ hơn, yêu cầu các ngân hàng tăng trưởng chủ động, bền vững hơn; các ngân hàng tăng cường trích lập dự phòng rủi ro cũng như tăng cường quy mô vốn điều lệ, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững.

Đối với BIDV, ngân hàng đang trình NHNN phương án tái cơ cấu từ nay tới năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, BIDV được định vị là ngân hàng thương mại nhà nước, tỷ lệ vốn nhà nước không dưới 65%, có tổng tài sản dẫn đầu, kinh doanh đa năng có hiệu quả, ổn định. Chiến lược BIDV theo đuổi trong thời gian tới là phát triển tín dụng xanh.

100 đồng tài sản thu về 1 đồng lợi nhuận

Trả lời thắc mắc của cổ đông liên quan tới việc quy mô dư nợ cao nhưng lợi nhuận lại thấp, ông Phan Đức Tú cho biết: Nhiều năm trước, BIDV có đặc thù trích lập dự phòng rủi ro lớn. Trong năm 2022, mức trích lập dự phòng rủi ro thấp xuống nên lợi nhuận đạt 23.000 tỷ đồng. So với quy mô tổng tài sản 2 triệu tỷ đồng, 100 đồng tài sản mới thu về 1 đồng lợi nhuận, tỷ lệ này là rất thấp. Tuy nhiên, kỳ vọng sau thời gian tái cơ cấu, mức tăng trưởng lợi nhuận sẽ nhanh hơn. Năm nay chúng tôi đặt mục tiêu 10 -15% theo chỉ đạo và yêu cầu của Chính phủ.

Đánh giá về rủi ro nợ xấu thời gian tới, đại diện ngân hàng cho biết, xu hướng nợ xấu của ngành ngân hàng năm 2023 bị ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới, một số định chế tài chính ngân hàng đổ vỡ. Tình hình kinh tế Việt Nam khá ổn định, song vẫn gặp một số khó khăn, tổng cầu nền kinh tế thấp; năng lực tài chính doanh nghiệp thấp, tỷ lệ đòn bẩy lớn.

"Xu hướng nợ xấu năm 2023 nhiều khả năng tăng so với năm ngoái. Ngân hàng đã trình cổ đông kế hoạch kinh doanh với việc duy trì nợ xấu dưới 1,4%, trích lập dự phòng từ 20.000 – 21.000 tỷ đồng, thấp hơn năm ngoái. Năm 2022, BIDV đã trích và xử lý xong cơ bản nợ có vấn đề", ông Phan Đức Tú nói.

Riêng về lĩnh vực bất động sản, ông Tú cho rằng, bất động sản là ngành kinh tế có hơn 70 ngành liên quan, mức độ lan tỏa, ảnh hưởng là rất lớn. Bất động sản tạo ra nhiều việc làm, có vai trò rất lớn. Hiện tại, khó khăn đối với lĩnh vực bất động sản chủ yếu nằm ở khâu pháp lý.

BIDV đã tổ chức gặp mặt 15 nhà phát triển bất động sản hàng đầu, họ đều cho biết khó khăn ở pháp lý. Quan điểm của BIDV là vẫn quan hệ bình thường đối với lĩnh vực này, song có cơ chế kiểm soát phù hợp, từng phân khúc, khu vực, dựa trên các tiêu chí về thanh khoản, nhu cầu.

"BIDV khẳng định không bỏ rơi ngành bất động sản. Dư nợ cho vay doanh nghiệp bất động sản của BIDV hiện nay chiếm khoảng 2-3% tổng dư nợ. 

Chia sẻ về kết quả kinh doanh quý I/2023 của BIDV, ông Lê Ngọc Lâm, Tổng giám đốc ngân hàng cho biết: Lợi nhuận trước thuế quý I/2023 của BIDV đạt 6.600 tỷ đồng, tăng 58% so với cùng kỳ. Tính đến cuối quý, tổng tài sản của ngân hàng đạt 2,06 triệu tỷ đồng; dư nợ tín dụng ở mức 1,57 triệu tỷ đồng (tăng 5% so với cùng kỳ, cao hơn mức bình quân hệ thống); huy động vốn ở mức 1,65 triệu tỷ đồng (tăng 2,3% so với cùng kỳ).

Trong đợt đầu, NHNN giao chỉ tiêu tín dụng cho BIDV ở mức 8,36%. Ngân hàng đang báo cáo để cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ