ADB hạ dự báo tăng trưởng Việt Nam do biến thể Delta

Nhàđầutư
Ngân hàng Phát triển Châu Á vừa hạ mức tăng trưởng dự báo cho Việt Nam trong năm nay từ mức 6,7% xuống còn 5,8% do tình hình dịch bệnh từ biến thể Delta.
KIM NGÂN
20, Tháng 07, 2021 | 13:01

Nhàđầutư
Ngân hàng Phát triển Châu Á vừa hạ mức tăng trưởng dự báo cho Việt Nam trong năm nay từ mức 6,7% xuống còn 5,8% do tình hình dịch bệnh từ biến thể Delta.

GDP

GDP Việt Nam 6 tháng đầu năm tăng 5,64%. Ảnh: Nikkei Asia

Con số tăng trưởng của năm tới có thể là 7%, theo một báo cáo của ADB ra hôm thứ Ba.

GDP Việt Nam 6 tháng đầu năm tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng trưởng 1,82% của 6 tháng đầu năm ngoái, nhưng thấp hơn mức 7,05% và 6,77% của cùng kỳ năm 2018 và 2019, theo Tổng cục Thống kê. 

Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 6, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị giữ nguyên các mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, phấn đấu GDP tăng ở mức cao nhất từ 6-6,5%.

Báo cáo ADB cũng cho biết phục hồi kinh tế của Đông Nam Á và Ấn Độ trong năm nay sẽ kém hơn so với dự báo ban đầu do Delta.

ADB dự báo tăng trưởng của Đông Nam Á năm nay khoảng 4%, giảm so với mức dự báo trước đó 4,4%, do làn sóng lây nhiễm mới dẫn đến những đợt phong tỏa mới trong khu vực. Con số của Ấn Độ giảm một điểm phần trăm xuống còn 10%.

Đông Nam Á và Ấn Độ được cho là sẽ tăng trưởng lần lượt 5,2% và 7,5% trong năm tới.

Indonesia, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á và là tâm chấn của đợt bùng phát dịch mới ở châu Á, hiện được dự báo sẽ tăng trưởng 4,1% thay vì 4,5%, và tăng lên 5% vào năm 2022.

Tăng trưởng của Malaysia có thể ở mức 5,5%, giảm từ 6%, và tăng lên 5,7% trong năm tới. ADB dự báo Thái Lan tăng trưởng 2% thay vì 3%, và phục hồi ở 4,9% năm 2022.

Philippines tuần trước công bố phát hiện các trường hợp lây nhiễm cộng đồng đầu tiên từ biến thể Delta. Nước này vẫn đang trên đà tăng trưởng 4,5%, trước khi lên 5,5% vào năm tới, ADB cho  biết.

COVID-19 bùng phát làm giảm triển vọng tăng trưởng chung của châu Á, hiện được dự báo ở mức 7,2%, thấp hơn mức ước tính trước đó 7,3%. Báo cáo nâng kỳ vọng tăng trưởng của châu Á trong năm tới lên 5,4%, từ mức 5,3%.

Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất trong khu vực, sẽ tăng trưởng ở mức 8,1% trong năm nay, trước khi “bình thường lại” ở mức 5,5% trong năm tới.

Theo số liệu của Trung Quốc, GDP quý 2 của nước này tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Quý 1, GDP tăng 18,3% so với quý 1/2020, phản ánh sự đình trệ trong hoạt động kinh tế đầu năm 2020 khi đại dịch bùng phát ở miền trung Trung Quốc và buộc chính phủ phong tỏa toàn quốc.

Một số nhà kinh tế dự đoán GDP của Trung Quốc sẽ chỉ tăng 5% đến 6% trong nửa cuối của năm nay, mặc dù so với nền thấp của năm ngoái khi đại dịch dẫn đến các đợt phong tỏa diện rộng, theo South China Morning Post.

Theo ADB, tiểu khu vực Thái Bình Dương tăng trưởng 0,3%, thấp hơn mức 1,4% dự báo trước đó, trong khi Trung Á có thể sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn, ở mức 3,6% thay vì 3,4%. Cả hai tiểu vùng này được dự báo tăng trưởng 4% trong năm tới.

Kinh tế trưởng Yasuyuki Sawada của ADB cho biết: “Châu Á và Thái Bình Dương đang tiếp tục phục hồi từ đại dịch, mặc dù con đường vẫn còn bấp bênh trong bối cảnh các đợt bùng phát mới, các biến thể virus mới và việc tiêm chủng vaccine không đồng đều”.

ADB nhấn mạnh việc triển khai tiêm chủng vaccine trong khu vực đang tăng tốc, với 41,6 liều được tiêm trên 100 người vào cuối tháng 6, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 39,2, nhưng thấp hơn tỷ lệ 97,6 ở Mỹ và 81,8 ở EU.

Goldman Sachs mới đây cũng cho biết sự gia tăng của các ca nhiễm biến thể Delta và các hạn chế chặt chẽ hơn có khả năng “ảnh hưởng đáng kể” đến tăng trưởng trong nửa cuối năm 2021 của Đông Nam Á so với những dự báo trước đây.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ