ABS: ’Nhóm chứng khoán chưa thể bứt phá trong ngắn hạn’

Nhàđầutư
ABS đánh giá các nhóm cổ phiếu triển vọng tốt gồm: Ngân hàng, xây dựng, bất động sản khu công nghiệp, dầu khí, thủy sản và cảng biển. Ở chiều ngược lại, nhóm chứng khoán bất động sản dân cư bị đánh giá kém hấp dẫn trong ngắn hạn.
TẢ PHÙ
19, Tháng 04, 2022 | 06:00

Nhàđầutư
ABS đánh giá các nhóm cổ phiếu triển vọng tốt gồm: Ngân hàng, xây dựng, bất động sản khu công nghiệp, dầu khí, thủy sản và cảng biển. Ở chiều ngược lại, nhóm chứng khoán bất động sản dân cư bị đánh giá kém hấp dẫn trong ngắn hạn.

Empty

ABS đánh giá nhóm chứng khoán, bất động sản dân cư kém hấp dẫn trong ngắn hạn. Ảnh: Trọng Hiếu.

Trong tháng 4/2022, CTCP Chứng khoán An Bình (ABS) đánh giá thị trường chứng khoán Việt Nam có thể vượt đỉnh lịch sử 1.535 điểm và dao động trong biên độ 1.440 – 1.560 điểm.

ABS nhìn nhận thị trường chứng khoán sẽ hưởng lợi nhờ một số yếu tố như: Kinh tế Việt Nam từ quý II/2022 kỳ vọng tăng tốc; Chính phủ bắt đầu triển khai gói đầu tư công từ tháng 4/2022; mùa ĐHĐCĐ thường niên năm 2022 với nhiều triển vọng tích cực…. Ngoài ra, ABS nhấn mạnh những động thái thanh lọc gần đây của cơ quan chức năng (với Tập đoàn FLC, Tập đoàn Tân Hoàng Minh…) được kỳ vọng sẽ giúp thị trường lành mạnh hơn.

Bên cạnh đó, thị trường có thể phải đối mặt với các thách thức như: Xung đột Nga – Ukraine; FED chính thức nâng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản vào giữa tháng 3 năm 2022, FED cũng dự kiến sẽ có 7 lần tăng lãi suất trong năm 2022 điều này nhiều khả năng sẽ làm giảm mức độ hấp dẫn của thị trường chứng khoán thế giới nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam qua đó khiến dòng vốn rút dần thông qua các quỹ đầu tư; việc NHNN siết tín dụng vào chứng khoán, bất động sản có thể khiến cho các cổ phiếu các ngành này bị áp lực tâm lý ngắn hạn. Tuy nhiên, ABS cho rằng điều này là cần thiết, giúp “nắn” lại dòng tiền, tránh các hiện tượng đầu cơ.

Triển vọng các nhóm ngành trong tháng 4/2022

ABS đánh giá lạc quan về triển vọng của nhóm ngân hàng khi nhiều nhà băng công bố kế hoạch kinh doanh năm 2022 khả quan như: MBB đặt mục tiêu lãi trước thuế năm 2022 đạt 20.300 tỷ đồng, tăng 23% so với thực hiện năm 2021. ACB đặt kế hoạch lãi trước thuế 15.018 tỷ đồnng, tăng 25%.

Ngoài ra, sơ bộ kết quả kinh doanh quý I/2022 của một số ngân hàng cũng dần lộ diện tương đối tích cực, như: VPB ước lãi 11.000 tỷ đồng trong quý I/2022 – mức cao kỷ lục với ngành ngân hàng, ACB ước lợi nhuận 4.200 tỷ - tăng 35% so với cùng kỳ, VIB ước lãi 2.200 tỷ - tăng 24% so với cùng kỳ, MBB ước lãi 5.500 tỷ….

Bên cạnh đó, ABS đánh giá cao nhóm ngành hưởng lợi đầu tư công với các triển vọng như: Luật Đất đai 2013 có thể sẽ được xúc tiến sửa đổi trong năm 2022 sẽ có thể đưa ra quy định cụ thể về hệ số đền bù giá đất, nhằm giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng vốn là điểm vướng của nhiều dự án bất động sản hiện nay; Chính phủ quyết tâm đẩy mạnh đầu tư công cùng những gói hỗ trợ về phục hồi kinh tế, đặc biệt GDP được dự báo tăng 6,5% - 7% trong năm 2022 không chỉ tạo cơ hội cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực bất động sản mà còn cả những công trình khác về hạ tầng kỹ thuật, văn hoá, xã hội….

Bất động sản khu công nghiệp cũng được khuyến nghị với kỳ vọng hưởng lợi nhờ nhu cầu thuê đất tại các khu công nghiệp theo hợp đồng ghi nhớ (MOU) đã ký trong 2021 sẽ được hoàn tất trong 2022. Hiện tại, diện tích đã ký MOU tại Bình Dương đạt 250ha, tại Bà Rịa-Vũng Tàu và Long An đạt khoảng 200ha.

Các vùng lõi trung tâm của Hà Nội nói riêng và các thành phố lớn tại miền Bắc nói chung hiện đã không còn nhiều quỹ đất. Chính vì vậy, ABS cho rằng việc chuyển dịch ra vùng ven đang được diễn ra nhanh chóng với quy mô lớn. Thị trường tại các tỉnh có các khu công nghiệp quy mô như Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hải Phòng, Hải Dương… sẽ vẫn có sự phát triển trong quý I nhờ nguồn cầu bất động sản vùng ven khu công nghiệp vẫn đang là điểm sáng của thị trường.

Đầu tư công được đẩy mạnh được coi là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp trong năm 2022. Thêm vào đó, việc thích ứng linh hoạt với đại dịch, chủ trương tiến đến trạng thái bình thường mới, cùng việc mở lại các đường bay quốc tế và dòng vốn FDI vào Việt Nam phục hồi mạnh từ đầu năm cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến các dự án bất động sản khu công nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới.

Dù dự đoán giá dầu trong ngắn hạn có thể có những diễn biến “trồi sụt” và làm gia tăng rủi ro cho sự biến động giá của nhóm cổ phiếu ngành này trong ngắn hạn, song ABS vẫn lạc quan về triển vọng kinh doanh dài hạn của nhóm dầu khí khi giá dầu vẫn duy trì ở mức cao và đủ lâu, các dự án lớn ngành dầu khí sẽ có nhiều thuận lợi để thúc đẩy tiến độ triển khai.

ABS cũng đánh giá cao triển vọng khả quan của nhóm thủy sản và cảng biển, nhưng lưu ý rằng giá cổ phiếu 2 nhóm này đã phản ánh phần nhiều triển vọng kinh doanh tích cực thời gian qua và dư địa tăng giá không còn nhiều, thậm chí trong ngắn hạn có thể đối mặt với áp lực chốt lời.

Ở chiều ngược lại, ABS nhìn nhận nhóm cổ phiếu chứng khoán kém hấp dẫn do kế hoạch kinh doanh năm 2022 thận trọng.

ABS phân tích: ”Với kế hoạch kinh doanh năm 2022 khá thận trọng, tăng trưởng lợi nhuận các CTCK dự kiến khiêm tốn trong khi định giá P/B của ngành chứng khoán hiện khá cao (2,6x). Bên cạnh đó, diễn biến TTCK trong quý I/2022 cũng cho thấy chỉ số biến động trong biên độ hẹp, thanh khoản có phần sụt giảm. Ngoài ra, việc siết tín dụng chứng khoán cũng sẽ ảnh hưởng tâm lý tới thị trường chung. Chính điều này khiến cho cổ phiếu ngành chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn”.

Do đó, ABS nhận định nhóm chứng khoán sẽ chưa thể có sự bứt phá trong ngắn hạn.

Tương tự, ABS cho rằng các cổ phiếu bất động sản dân cư sẽ phải chịu “áp lực” sau một thời gian tăng mạnh cùng với những yếu tố tác động từ việc siết tín dụng bất động sản. Tuy nhiên, ABS vẫn đánh giá cao những doanh nghiệp có nền tảng tốt, quỹ đất lớn như VHM, NVL, NLG…

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ