Việt Nam tiếp tục trong danh sách theo dõi nâng hạng thị trường chứng khoán

Nhàđầutư
FTSE Russell đánh giá Việt Nam cần cải thiện quá trình đăng ký tài khoản mới, đồng thời đưa ra một cơ chế hiệu quả để tạo điều kiện cho hoạt động giữa các nhà đầu tư nước ngoài ở các cổ phiếu đã cạn/sắp cạn room ngoại.
ĐÌNH VŨ
29, Tháng 09, 2023 | 14:11

Nhàđầutư
FTSE Russell đánh giá Việt Nam cần cải thiện quá trình đăng ký tài khoản mới, đồng thời đưa ra một cơ chế hiệu quả để tạo điều kiện cho hoạt động giữa các nhà đầu tư nước ngoài ở các cổ phiếu đã cạn/sắp cạn room ngoại.

Empty

Việt Nam tiếp tục trong danh sách theo dõi nâng hạng thị trường. Ảnh: Trọng Hiếu

Kết quả xếp hạng thị trường tháng 9 của FTSE Russell, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách theo dõi từ 2018, tức vẫn chưa được nâng hạng lên thị trường mới nổi hạng 2.

Kết quả này là không nằm ngoài dự báo. Điểm tích cực là FTSE Russell đánh giá cao cam kết của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cho biết Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đang tích cực tìm kiếm giải pháp về vấn đề ký quỹ trước giao dịch (pre-funding).

Theo đó, FTSE Russell đánh giá Việt Nam vẫn chưa đáp đứng được tiêu chí chu kỳ thành toán (DvP) (đang ở mức hạn chế). Điều này là do phải đảm bảo có tiền trước khi thực hiện giao dịch (pre-funding). Thị trường cũng chưa gặp phải các giao dịch thất bại, do đó mục "thanh toán – chi phí liên quan tới giao dịch thất bại" chưa được đánh giá.

FTSE Russell đánh giá quá trình nâng hạng chậm hơn dự kiến, một phần do ảnh hưởng dịch COVID-19. Việt Nam cần cải thiện quá trình đăng ký tài khoản mới, đồng thời đưa ra một cơ chế hiệu quả để tạo điều kiện cho hoạt động giữa các nhà đầu tư nước ngoài ở các cổ phiếu đã cạn/sắp cạn room ngoại. 

FTSE Russell cho biết: “Mặc dù kế hoạch cải tổ thị trường vẫn tiến triển chậm, nhưng Chính phủ Việt Nam đã thể hiện cam kết đẩy mạnh quá trình này. Bên cạnh đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cũng tích cực tìm kiếm các giải pháp khả dĩ về vấn đề ký quỹ trước giao dịch (pre-funding)”.

Cơ quan này vẫn tiếp tục “mối quan hệ mang tính xây dựng” với UBCKNN, Ngân hàng Thế giới (WB), Ernst & Young và các cơ quan phụ trách thị trường khác. (Hiện WB và Ernst & Young đang hỗ trợ chương trình cải tổ thị trường của Việt Nam)

“Việc hoàn thiện các vai trò và trách nhiệm cần thiết trong mô hình thanh toán sao cho phù hợp với luật mới của Việt Nam là bước quan trọng kế tiếp. FTSE Russell tiếp tục khuyến khích các cơ quan quản lý thị trường Việt Nam công bố chỉ dẫn rõ ràng hơn về các bước đi và lộ trình triển khai quá trình cải tổ”.

Theo đánh giá chung các tổ chức xếp hạng và các định chế tài chính quốc tế lớn, Việt Nam đã có nhiều cải thiện và đạt được nhiều tiêu chí quan trọng. Tuy nhiên, hiện có hai nhóm vấn đề trọng yếu cần tập trung cải thiện và có những biện pháp tháo gỡ nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK trong thời gian tới. Đó là yêu cầu ký quỹ trước giao dịch và giới hạn sở hữu nước ngoài. Cả hai vấn đề này đều cần có sự phối hợp thiết thực của các cơ quan, bộ ngành có liên quan để tháo gỡ, như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 

Tại phân tích gần nhất, FTSE Rusell đưa ra đánh giá lạc quan về thị trường chứng khoán Việt Nam. Hãng xếp hạng thị trường đề cập đến một số thành tích của Việt Nam như GDP tăng 8% trong năm 2022, FTSE Vietnam 30 Index tăng 12% kể từ đầu năm 2023 hay việc hợp tác với FTSE Russell và Sàn giao dịch chứng khoán Singapore (SGX) sẽ giúp Việt Nam có hệ sinh thái toàn diện giúp nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận cổ phiếu Việt và kiểm soát các rủi ro liên quan.

SSI Research đánh giá cơ hội được FTSE Russel nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể rõ hơn ngay trong năm 2024. Khả năng được nâng hạng bởi MSCI trong các năm sau đó đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của tất cả các thành viên tham gia thị trường.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ