VEPR: Hiệp hội Lương thực Việt Nam thiếu trách nhiệm với lợi ích người nông dân

Nhàđầutư
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chỉ đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp nhà nước, thay vì bảo vệ lợi ích của nông dân trồng lúa. VFA không làm tròn vai trò bảo vệ hội viên, cần xoá bỏ những đặc quyền mà VFA đang có.
NGUYỄN TRANG
30, Tháng 03, 2018 | 14:43

Nhàđầutư
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chỉ đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp nhà nước, thay vì bảo vệ lợi ích của nông dân trồng lúa. VFA không làm tròn vai trò bảo vệ hội viên, cần xoá bỏ những đặc quyền mà VFA đang có.

29829712_1709652155795849_1231657735_o

TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trình bày bài nghiên cứu về vai trò của VFA tại Hội thảo. Ảnh:Nguyễn Trang

Sáng 30/3, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức Hội thảo công bố kết quả Báo cáo nghiên cứu “Đánh giá vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam đối với ngành lúa gạo và đề xuất các biện pháp cải tổ Hiệp hội” tại Hà Nội.

Theo báo cáo của nhóm tác giả đến từ VEPR do TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, lịch sử cho thấy việc ra đời của VFA, ngay từ đầu đã không phản ánh đúng nguyên tắc căn bản là "dựa trên sự tự nguyện của các thành viên" mà dựa trên ý chí của bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước, với kỳ vọng sẽ trở thành "cánh tay nối dài" của Chính phủ để quản lý ngành gạo.

“Hiệp hội thành lập dựa trên ý chí của một bộ phận các cơ quan quản lý Nhà nước, với kỳ vọng sẽ trở thành ‘cánh tay nối dài’ của Chính phủ để quản lý ngành gạo”, báo cáo nhận định.

Nhóm nghiên cứu của VEPR đã thẳng thắn chỉ ra "VFA chỉ là hiệp hội của doanh nghiệp xuất khẩu và chỉ đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp lớn".

Theo VEPR, Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo quy định tiêu chuẩn thương nhân xuất khẩu gạo dựa trên quy mô sản xuất và địa bàn hoạt động. Nhiều doanh nghiệp (DN) quy mô nhỏ, đang phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng cao lại không đủ điều kiện trở thành thành viên của VFA.

Như vậy, mặc dù VFA có tên đầy đủ là Hiệp hội Lương thực Việt Nam nhưng không những không bao phủ tới nông dân, thương nhân trung gian, mà còn không đại diện cho quảng đại cộng đồng doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành gạo.

Thực tế hoạt động cho thấy VFA đang không làm tròn vai trò bảo vệ hội viên. VFA đang thực thi vai trò bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp nhà nước, thay vì đông đảo doanh nghiệp tư nhân, thể hiện rõ qua triển khai hợp đồng tập trung (G2G). Các quyết định phân bổ của VFA dựa trên cách tiếp cận từ phía quản lý, không dựa trên sự đồng thuận và tự nguyện của hội viên từ trước.

Mặt khác, VEPR nhận định VFA không có giá trị định hướng trong chiến lược phát triển thị trường và liên kết năng động của khối doanh nghiệp tư nhân; đồng thời thất bại trong vai trò dẫn dắt khối doanh nghiệp nhà nước thu hẹp khoảng cách về năng lực phát triển thị trường và liên kết với khối doanh nghiệp tư nhân.

Với bản chất là hiệp hội của doanh nghiệp xuất khẩu, VFA thiếu quan tâm tới thị trường nội địa, mặc dù các doanh nghiệp hội viên liên tục phản ánh về cơ hội thị trường nội địa, khiến quyền lợi của doanh nghiệp hội viên không được đảm bảo.

Từ những phân tích nêu trên, VEPR khuyến nghị, VFA nên giới hạn tên gọi trong phạm vi doanh nghiệp xuất khẩu, có thể là Hiệp hội xuất khẩu gạo Việt Nam. 

Trong dài hạn, Hiệp hội cần cải tổ và thay đổi một cách triệt để, đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc: tự nguyện, tự quản, tự chủ, tự trang trải và tự chịu trách nhiệm. Đồng thời, Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của hội, hiệp hội.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ