Thu nhập nhân viên PGBank tăng mạnh giữa đỉnh dịch COVID-19

Nhàđầutư
Tính bình quân, tiền lương người lao động tại PGBank nhận được là 13,78 triệu đồng (cao hơn số đầu năm là 13,39 triệu); thu nhập bình quân là 19,17 triệu đồng, tăng 29% so với năm 2019.
BẢO LINH
24, Tháng 04, 2020 | 15:19

Nhàđầutư
Tính bình quân, tiền lương người lao động tại PGBank nhận được là 13,78 triệu đồng (cao hơn số đầu năm là 13,39 triệu); thu nhập bình quân là 19,17 triệu đồng, tăng 29% so với năm 2019.

nhadautu - PGBank luong nhan vien tang truong cao

Lương nhân viên PGBank tăng mạnh giữa đỉnh COVID-19 (Ảnh: PGBank)

Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank) vừa công bố báo cáo tài chính quý I/2020 với sự suy giảm mạnh của hầu hết các mảng kinh doanh.

Cụ thể, thu nhập lãi thuần của PGBank đạt hơn 193 tỷ đồng, thấp hơn rất nhiều so với quý I/2019 đạt 855,4 tỷ; Hoạt động dịch vụ và kinh ngoại ngoại hối đem về 15 tỷ và 10,4 tỷ đồng, cùng bằng vỏn vẹn 1/5 so với cùng kỳ; Không những thế, hoạt động khác 10,4 tỷ đồng giảm đến 98%.

Phải nhờ đến tiết giảm mạnh chi phí hoạt động xuống 164,1 tỷ (giảm 71%) và trích lập dự phòng 14 tỷ (giảm 97%), PGBank mới ghi nhận lợi nhuận trước thuế 75,6 tỷ đồng, qua đó thu hẹp mức giảm xuống 16% so với cùng kỳ năm ngoái.

Với diễn biến kể trên, không lạ nếu lương nhân viên ngân hàng PGBank sẽ bị cắt giảm. Dù vậy, khá bất ngờ khi tiền lương và thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên nhà băng này lại tăng mạnh.

Cụ thể, tính hết ngày 31/3, PGBank có 1.665 nhân viên, tăng  25 nhân viên so với ngày 31/12/2019. Trong kỳ, PGBank chi 95,2 tỷ trả tiền lương và thương (giảm 66% so với đầu năm).

Bình quân, tiền lương người lao động tại PGBank nhận được là 13,78 triệu đồng (cao hơn số đầu năm là 13,39 triệu); thu nhập bình quân là 19,17 triệu đồng, tăng 29% so với năm 2019.

94612493_803677630452088_386856539098447872_n

Tình hình thu nhập của cán bộ CNV tại PGBank (Ảnh: PGBank)

Tính đến hết ngày 31/3, tổng tài sản ngân hàng đạt 31.373 tỷ đồng, giảm nhẹ 1% so với số đầu kỳ. Trong đó, dư nợ cho vay khách hàng gần 23.316 tỷ, giảm 2%. Số dư tiền gửi của khách hàng là 26.189 tỷ đồng, tăng 3%.

Đáng chú ý, số dư nợ xấu của ngân hàng tại ngày 31/3 là 767,28 tỷ, chiếm 3,29% tổng dư nợ; tăng so với số đầu năm là 3,16%. Ngoài ra, Ngân hàng còn gần 1.374 tỷ đồng nợ xấu tại VAMC, trong đó đã trích lập 754,1 tỷ đồng.

Hiện nay, PGBank đang nằm trong nhóm các nhà băng nhỏ nhất hệ thống. Trong suốt 5 năm qua, ngân hàng này mòn mỏi chờ đợi sáp nhập vào ngân hàng khác. Ban đầu là Vietinbank, và từ năm 2018 đến nay là HDBank.

Tại ĐHĐCĐ thường niên (tổ chức tháng 4/2019), Tổng giám đốc HDBank, ông Nguyễn Hữu Đặng cho biết đề án sáp nhập đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận về nguyên tắc và việc sáp nhập dự kiến hoàn tất vào cuối năm 2019.

Dù vậy, nhiều khả năng phương án cuối cùng vẫn chưa nhận được cái "gật đầu" của Ngân hàng Nhà nước, và việc sáp nhập sớm nhất phải nửa năm nữa mới được chấp thuận.

Cụ thể, tại cuộc gặp gỡ nhà đầu tư vào tháng 11/2019, ban lãnh đạo Tập đoàn Petrolimex đặt mục tiêu nhận được phê duyệt cuối cùng đối với đề xuất sáp nhập PGBank và HDBank trong tháng 6/2020.

Đây có thể sẽ là nội dung đáng chú ý tại ĐHĐCĐ của 2 ngân hàng (đã hoãn họp do dịch COVID-19, dự kiến tổ chức trước ngày 30/6/2020).

Petrolimex hiện là cổ đông lớn nhất của PGBank, với tỷ lệ lên tới 40%. Dự kiến sau sáp nhập, Petrolimex sẽ nắm 5,8% cổ phần và trở thành cổ đông lớn của HDBank.

PGBank không ghi nhận dòng tiền từ hoạt động kinh doanh chính?

Trên bảng lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, phần thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự của PGBank ghi nhận dòng tiền -9,8 tỷ đồng (so với cùng kỳ là +2.329 tỷ đồng). Tính toán Nhadautu.vn cho thấy, lưu chuyển tiền thuần thực tế từ hoạt động kinh doanh trước thay đổi tài sản và vốn lưu động là -170,5 tỷ đồng (số trên BCTC là -147,6 tỷ).

Cũng trên BCTC quý I/2020, dòng tiền trong kỳ của PGBank là +701,7 tỷ đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ