Nợ xấu PGBank sau 6 tháng đầu năm tăng lên gần 3,06%

Nhàđầutư
Với việc phải tăng đột biến trích lập dự phòng trong quý II/2019, PGBank ghi nhận chỉ lãi vỏn vẹn 8 tỷ đồng. Như vậy, sau 6 tháng đầu năm, lãi trước thuế của ngân hàng đạt 94 tỷ đồng, trong đó, quý I/2019 đóng góp phần lớn với mức lãi 86 tỷ đồng, quý II chỉ đạt 8 tỷ.
BẢO LINH
20, Tháng 07, 2019 | 11:58

Nhàđầutư
Với việc phải tăng đột biến trích lập dự phòng trong quý II/2019, PGBank ghi nhận chỉ lãi vỏn vẹn 8 tỷ đồng. Như vậy, sau 6 tháng đầu năm, lãi trước thuế của ngân hàng đạt 94 tỷ đồng, trong đó, quý I/2019 đóng góp phần lớn với mức lãi 86 tỷ đồng, quý II chỉ đạt 8 tỷ.

nhadautu - PGBank bctc quy II 2019

Nợ xấu PGBank sau 6 tháng đầu năm 2019 tăng lên gần 3,06%

Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex vừa công bố BCTC quý II/2019. Theo đó, lợi nhuận trước thuế quý II/2019 của ngân hàng chỉ đạt 8 tỷ, giảm hơn một nửa so với cùng kỳ. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2019, lãi trước thuế của nhà băng này chỉ đạt 94 tỷ, giảm 5% so với nửa đầu năm 2018.

Bóc tách con số cụ thể, phần lớn các mảng kinh doanh của PGBank trong 6 tháng đầu năm đều suy giảm. Thu nhập lãi thuần giảm nhẹ 1% chỉ đạt gần 430 tỷ; lãi từ dịch vụ giảm 19% xuống còn 16 tỷ; lãi từ kinh doanh ngoại hối cũng giảm 8% xuống 26 tỷ đồng.

Hoạt động khác lại đem về lãi đột biến tăng 7 lần so với cùng kỳ, đạt 55 tỷ đồng. Trong khi đó, lãi từ mua bán chứng khoán tăng nhẹ 6,5% đạt hơn 11 tỷ đồng.

Tính chung, tổng thu nhập hoạt động của PGBank sau nửa đầu năm 2019 đạt gần 540 tỷ, tăng gần 8%. Chi phí hoạt động ở mức tương đương cùng kỳ đạt 269 tỷ đồng.

Dù vậy, với việc tăng mạnh chi phí dự phòng 30% lên 175 tỷ (trong đó chi phí dự phòng quý II/2019 là 159,3 tỷ đồng), lãi trước thuế của ngân hàng đạt 94 tỷ đồng (giảm 5 tỷ đồng so với cùng kỳ). Trong đó, quý I/2019 đóng góp phần lớn với mức lãi 86 tỷ đồng, quý II chỉ đạt 8 tỷ.

Cuối tháng 6/2019, tổng tài sản của PGBank đạt 28.211 tỷ đồng, giảm 5,6% so với hồi đầu năm. Cụ thể, cho vay khách hàng chỉ tăng nhẹ 1,2% lên 22.080 tỷ đồng; tiền gửi tại NHNN sụt giảm mạnh 70% xuống 580 tỷ. Huy động tiền gửi khách hàng của PGBank sụt giảm 7,8% xuống còn 21.519 tỷ.

Đáng chú ý, nợ xấu tại nhà băng có xu hướng tăng lên. Cuối quý II/2019, nợ xấu của GPBank là 683 tỷ đồng, tăng 29 tỷ so với đầu năm, tính ra tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay tăng từ 2,96% lên 3,06%.

Được biết, Nghị quyết ĐHĐCĐ thường niên 2018 của HDBank đã thông qua phương án sáp nhập giữa HDBank và PGBank theo tỷ lệ 1 cổ phần PG Bank sẽ được hoán đổi ngang bằng 0,621 cổ phần HDBank, số cổ phần sau hoán đổi này trở thành 186,3 triệu cổ phần HDBank.

Vào tháng 9/2018, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận về mặt nguyên tắc việc sáp nhập PGBank và HDBank. Trong thời hạn 60 ngày, HDBank phải gửi Ngân hàng Nhà nước bộ hồ sơ đề nghị chấp thuận sáp nhập theo quy định.

Theo lộ trình đề ra, sau khi được chấp thuận về mặt nguyên tắc, HDBank sẽ đăng ký nộp hồ sơ chào bán cổ phần với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Tuy thế, đến cuối năm 2018, HDBank vẫn đang “án binh bất động”.

Vấn đề này đã được các cổ đông đặt ra tại ĐHĐCĐ thường niên 2019 của HDBank. Trả lời các thắc mắc của cổ đông, ông Nguyễn Hữu Đặng – Tổng Giám đốc HDBank, cho hay đề án sáp nhập đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận về nguyên tắc.

Hai ngân hàng cũng đã hoàn thành hồ sơ và đang thực hiện công tác chuẩn bị để đảm bảo hoạt động tốt, hiệu quả trước thời điểm sáp nhập nhằm tạo hiệu ứng cộng hưởng, đảm bảo ngân hàng sau sáp nhập đạt được các kế hoạch theo Đề án đã đề ra.

Ông cũng cho hay, “Để thuận lợi cho quá trình sáp nhập và xử lý những tồn đọng tại PGBank, HDBank đã cử người tham gia quản trị điều hành của PGBank. Dự kiến cuối năm nay sẽ hoàn tất sáp nhập".

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24900.00 24980.00 25300.00
EUR 26270.00 26376.00 27549.00
GBP 30688.00 30873.00 31825.00
HKD 3146.00 3159.00 3261.00
CHF 27021.00 27130.00 27964.00
JPY 159.49 160.13 167.45
AUD 15993.00 16057.00 16546.00
SGD 18139.00 18212.00 18746.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 17952.00 18024.00 18549.00
NZD   14681.00 15172.00
KRW   17.42 18.97
DKK   3528.00 3656.00
SEK   2270.00 2357.00
NOK   2259.00 2348.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ