Phó Thủ tướng yêu cầu xác minh về khai thác vàng sa khoáng trái phép tại Thái Nguyên

Nhàđầutư
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu UBND tỉnh Thái Nguyên kiểm tra, xác minh làm rõ các nội dung tố cáo của ông Nguyễn Trường Thành liên quan đến việc buông lỏng quản lý để doanh nghiệp khai thác vàng sa khoáng và xây dựng nhiều công trình trái phép trên hàng chục héc ta rừng đặc dụng.
PHAN CHÍNH
20, Tháng 09, 2018 | 16:47

Nhàđầutư
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu UBND tỉnh Thái Nguyên kiểm tra, xác minh làm rõ các nội dung tố cáo của ông Nguyễn Trường Thành liên quan đến việc buông lỏng quản lý để doanh nghiệp khai thác vàng sa khoáng và xây dựng nhiều công trình trái phép trên hàng chục héc ta rừng đặc dụng.

rung-dac-dung-than-sa2-1119

Khu văn phòng, đình, chùa được xây dựng trên 1,7ha đất rừng đặc dụng nơi Công ty Khoáng sản Thăng Long khai tác vàng

Theo đó, ông Nguyễn Trường Thành, nguyên Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Thái Nguyên có đơn gửi Thủ tướng Chính phủ tố cáo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên và lãnh đạo Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng buông lỏng quản lý, để doanh nghiệp khai thác vàng sa khoáng và xây dựng nhiều công trình trái phép trên hàng chục héc ta rừng đặc dụng, chiếm đường dân sinh để sử dụng riêng cho việc khai khoáng; các vi phạm nêu trên có sự bao che của chính quyền tỉnh Thái Nguyên; việc khai thác vàng sa khoáng trái phép và bán 3 cơ sở nhà đất tại trung tâm thành phố Thái Nguyên đã gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng.

Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Thái Nguyên kiểm tra, xác minh làm rõ các nội dung phản ánh và có biện pháp giải quyết theo đúng quy định pháp luật trả lời tố cáo và báo cáo Thủ tướng trước ngày 15/11/2018.

Như Nhadautu.vn đã đưa tin trước đó, vào năm 2011, Thủ tướng Chính Phủ có Quyết định số 2427/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Thế nhưng, UBND tỉnh Thái Nguyên lại gia hạn khai thác mỏ vàng Khắc Kiệm cho Công ty khoáng sản Thăng Long đến năm 2032...

Cụ thể, ngày 5/12/2008, tỉnh Thái Nguyên cấp giấy phép số 3068 cho phép Công ty khoáng sản Thăng Long khai thác 1.021.679m3 cát quặng tại mỏ vàng Bản Ná. Theo giấy phép này, chủ đầu tư được khai thác cát quặng trên lô đất rộng 37,25ha với sản lượng 120.000m3/năm, với thời hạn 7 năm (Trong đó: 1 năm xây dựng cơ bản mỏ, 5 năm khai thác và 1 năm hoàn thổ, phục hồi môi trường).

Ngày 30/3/2015, Thủ tướng Chính Phủ có Chỉ thị số 03/CT-TTg nhằm tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị: Thực hiện nghiêm các chủ trương, định hướng trong điều tra, thăm dò, khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản theo Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thế nhưng, tại Quyết định số 2646 của UBND tỉnh Thái Nguyên, tỉnh này lại gia hạn cho Công ty khoáng sản Thăng Long được phép khai thác vàng sa khoáng tại mỏ vàng Khắc Kiệm đến năm 2032 (vượt 2 năm so với Quyết định 2427/QĐ-TTg).

Dự án khai thác mỏ vàng sa khoáng Khắc Kiệm có trữ lượng quặng 1.312.232m3 được tỉnh Thái Nguyên cấp phép khai thác từ năm 2009. Tuy nhiên, theo khảo sát của phóng viên cho thấy, mỏ vàng Khắc Kiệm vẫn là vùng đất nguyên thủy, chưa có dấu hiệu khai thác.

Điều đáng ngạc nhiên, trong Quyết định số 2646 của UBND tỉnh Thái Nguyên, trữ lượng cát quặng khai thác chỉ còn 241.502m3. Hụt 1.070.821m3 so với giấy phép được cấp cho Công ty khoáng sản Thăng Long năm 2009.

Con số này có thể trùng khớp nếu chủ đầu tư khai thác khoáng sản trong 4,5 năm với sản lượng khai thác là 240.000m3/năm như đã được phê duyệt tại giấy phép số 799.

lien-nganh-thai-nguyen-1517-1038

Xe đoàn kiểm tra liên ngành đi kiểm tra đỗ trước quán đặc sản thú rừng trong giờ hành chính

Một điểm đáng lưu ý khác là, thời gian hoàn thổ, phục hồi môi trường tại các mỏ khoáng sản là 1 năm. Thế nhưng thay vì thu hồi dự án, tỉnh Thái Nguyên lại tiếp tục gia hạn cho Công ty khoáng sản Thăng Long trước khi giấy phép cũ hết hạn chỉ 18 ngày (Ngày 20/4/2009 và 2/10/2015). Liệu tỉnh Thái Nguyên có “ưu ái” đặc biệt cho “đại gia đào mỏ”.

Hơn thế nữa, với trữ lượng còn lại là 241.502m3, theo giấy phép số 799 thì Công ty khoáng sản Thăng Long chỉ khai thác trong 1 năm là hết. Thế nhưng, tỉnh Thái Nguyên lại kéo dài thời gian khai thác lên đến 17 năm với mục đích gì!?

Không chỉ mỏ vàng Khắc Kiệm, mỏ vàng Bản Ná sau khi được gia hạn khai thác cũng được kéo dài.

Một điểm bất hợp lý khác là tại Quyết định 1289 năm 2015 của UBND tỉnh Thái Nguyên cho phép Công ty khoáng sản Thăng Long tiếp tục khai thác mỏ vàng Bản Ná. Tại Quyết định này, chủ đầu tư được khai thác quặng với công suất 25.000m3/năm, và tính từ ngày 6/12/2013. Tại sao tỉnh Thái Nguyên lại ra một quyết định trễ đến 2 năm?

Trong khi đó, tại giấy phép số 3068 năm 2008, Công ty khoáng sản Thăng Long được phép khai thác vàng tại Bản Ná với công suất 120.000m3/năm trong thời hạn 7 năm (trong đó có 5 năm khai thác). Như vậy, khai thác tối đa theo giấy phép, Công ty Khoáng sản Thăng Long cũng chỉ khai thác được 120.000x5 = 600.000m3.

Thế nhưng, tại Quyết định 1289 tỉnh Thái Nguyên lại công bố mỏ vàng Bản Ná trữ lượng chỉ còn 170.254m3. Làm phép tính đơn giản, 1.021.679 – 600.000 – 170.254 = 251.425m3 quặng đã chảy về đâu?

Trước đó, ngày 20/8, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Nhữ Văn Tâm ký văn bản chỉ đạo các Sở ngành, UBND huyện Võ Nhai vào cuộc xác minh làm rõ thông tin phản ánh của báo chí liên quan đến việc phá rừng đặc dụng mở đường, khai thác vàng.

Sau khi có chỉ đạo của Phó chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên, ngày 23/8, Sở Nông Nghiệp do ông Nông Xuân Bắc, Phó Giám đốc sở cùng với Sở Tài nguyên, UBND huyện Võ Nhai, Kiểm lâm, Khu bảo tồn xuống thực địa tại Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và khai thác khoáng sản Thăng Long (Công ty khoáng sản Thăng Long) để kiểm tra. Tuy nhiên, vào buổi chiều 23/8, đoàn xe của đoàn kiểm tra liên ngành và xe của doanh nghiệp này lại đỗ ngay trước quán nhậu “đặc sản thú rừng” rất nổi tiếng tại Thái Nguyên.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ