Ông Trần Đình Long trở thành tỷ phú nhờ đặt cược vào thép

Tỷ phú Trần Đình Long không hề có kinh nghiệm về thép khi quyết định làm lĩnh vực này giữa những năm 1990 và đã đặt cược rằng Việt Nam sẽ cần nhiều thép hơn nữa khi đất nước phát triển.
PHƯƠNG LINH
19, Tháng 01, 2021 | 07:34

Tỷ phú Trần Đình Long không hề có kinh nghiệm về thép khi quyết định làm lĩnh vực này giữa những năm 1990 và đã đặt cược rằng Việt Nam sẽ cần nhiều thép hơn nữa khi đất nước phát triển.

"Tất cả những gì tôi có khi đó là niềm đam mê và không sợ hãi", người sáng lập kiêm Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát hồi tưởng.

Nhiều thập kỷ sau, tập đoàn hiện giữ thị phần đứng đầu về thép xây dựng tại Việt Nam và đưa doanh nhân 59 tuổi trở thành tỷ phú.

Cổ phiếu của Tập đoàn Hòa Phát (HoSE: HPG) đã tăng hơn gấp đôi trong năm 2020. Điều này đã giúp khối lượng cổ phiếu thuộc sở hữu của vợ chồng ông Trần Đình Long - Chủ tịch Hòa Phát đạt 1,9 tỷ USD, theo dữ liệu từ Bloomberg. 

1000x-1 (3)

Tỷ phú Trần Đình Long - Chủ tịch tập đoàn Hòa Phát. Ảnh: Tập đoàn Hòa Phát 

Ông Long trở lại bảng xếp hạng tỷ phú USD sau khi rời vào năm 2018 do cổ phiếu Hòa Phát rớt giá. Dù vậy, lãnh đạo Hòa Phát khẳng định cổ phiếu không hề bị định giá quá cao, dù hệ số P/E (giá trên lợi nhuận) hiện ở gần mức cao nhất một thập kỷ.

"Một đất nước mới công nghiệp hóa sẽ phải xây rất nhiều cơ sở hạ tầng", ông Long cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg.

GDP Việt Nam tăng trưởng 2,9% trong năm 2020 và kỳ vọng tăng 7,6% năm nay - mức trung bình các dự báo của chuyên gia kinh tế do Bloomberg khảo sát. Theo Tổng cục Thống kê, đầu tư công đạt mức cao nhất trong 10 năm qua, đạt 406.800 tỷ đồng sau 11 tháng.

“Nếu nền kinh tế tăng trưởng 7% - 8%, nhu cầu thép sẽ tăng 10% - 12%,” ông Long nói.

Doanh nhân gốc Hà Nội xây dựng Hòa Phát cùng vài người bạn vào năm 1992 khi phân phối thiết bị và phụ tùng xây dựng đã qua sử dụng. Đến năm 1996, họ quyết định lấn sân vào ngành thép. Và đến năm 2017, tập đoàn xây dựng khu liên hợp Dung Quất tổng đầu tư 2,6 tỷ USD, tạo ra bước ngoặt mới trong quá trình phát triển.

Nhờ dự án Dung Quất đi vào hoạt động tạo cơ hội cho Hòa Phát đẩy mạnh sản lượng, chiếm thêm thị phần trong năm 2020 bất chấp diễn biến bất lợi của dịch bệnh COVID-19.

Trong năm 2020, Hòa Phát ghi nhận sản lượng kỷ lục trên 5 triệu tấn, riêng thép xây dựng thành phẩm đạt 3,4 triệu tấn, tăng 22,5% so với năm trước. Lượng phôi thép cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước đạt 1,7 triệu tấp, thép cuộn cán nóng (HRC) đạt 700.000 tấn. Thị phần thép xây dựng của tập đoàn tăng từ 26,19% lên 33%, duy trì vị trí dẫn đầu thị trường.

Theo tỷ phú Trần Đình Long, Hòa Phát đặt mục tiêu phát triển Khu liên hợp gang thép Dung Quất II bắt đầu từ tháng 1/2022 và bắt đầu hoạt động trong khoảng ba năm.

Ý tưởng là để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thép cuộn cán nóng. Ông Long cho biết dự án có thể giúp tăng doanh thu và lợi nhuận hàng năm lên đến 80% so với mức hiện tại.

"Việt Nam hiện có thứ hạng thấp về tiêu thụ thép trên đầu người, khi đất nước chỉ mới bước những bước đi đầu tiên trong phát triển cơ sở hạ tầng. Với cơ sở tại Dung Quất, Hòa Phát đã trở thành người chơi thống trị", bà Phạm Mai Trang, phó Giám đốc nghiên cứu của quỹ đầu tư Dragon Capital Group nhận xét với Bloomberg. Dragon Capital hiện nắm 6% cổ phần Hòa Phát.

Khi được hỏi về các thách thức với công ty, lãnh đạo Dragon Capital cho biết năm 2020, Hòa Phát đã phải tìm cách thích ứng để tăng quy mô hoạt động. Năm nay, công ty sẽ phải lặp lại thành công này với thép cán nóng.

Tỷ phú Trần Đình Long chia sẻ, dù đà tăng trưởng được duy trì hay bất chứ chuyện gì xảy ra, việc trở thành một trong các tỷ phú của Việt Nam nhờ chuyển hướng qua ngành thép không thay đổi nhiều cuộc sống của bản thân.

“Tôi vẫn thường cà phê với những người bạn hàng ngày tại nơi chung tôi từng găp nhau 20 năm trước. Mọi thứ vẫn như vậy”, ông Long nói.

(Theo Bloomberg)

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ