Ông Michael Kokalari: Không có ảnh hưởng của SVB và Credit Suisse đối với Việt Nam

Nhàđầutư
Ông Michael Kokalari nhìn nhận câu chuyện của SVB và Credit Suisse sẽ có lợi cho Việt Nam vì cả hai đều có khả năng dẫn đến việc VNĐ tăng giá so với USD. Điều này sẽ bơm thanh khoản bằng VNĐ vào nền kinh tế, dẫn đến việc tăng cơ sở tiền tệ của quốc gia.
HỮU BẬT
19, Tháng 03, 2023 | 11:16

Nhàđầutư
Ông Michael Kokalari nhìn nhận câu chuyện của SVB và Credit Suisse sẽ có lợi cho Việt Nam vì cả hai đều có khả năng dẫn đến việc VNĐ tăng giá so với USD. Điều này sẽ bơm thanh khoản bằng VNĐ vào nền kinh tế, dẫn đến việc tăng cơ sở tiền tệ của quốc gia.

16-chot-167862281619020265998

Các sự kiện từ SVB và Credit Suisse được kỳ vọng sẽ có lợi cho Việt Nam. Ảnh: Internet.

Sự sụp đổ đột ngột của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) ở Mỹ cùng với những lo ngại về khả năng lây lan sang các ngân hàng châu Âu làm một số nhà đầu tư đặt câu hỏi về mức độ ảnh hưởng của sự sụp đổ này đối với Việt Nam - và liệu các ngân hàng ở Việt Nam có chịu rủi ro tiềm ẩn nào tương tự với những rủi ro của SVB hay không? 

Theo quan điểm của ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital, sự sụp đổ của SVB không ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán cũng như nền kinh tế Việt Nam. "Chúng tôi cũng nhận thấy những sự việc đã tác động đến SVB và một số ngân hàng khu vực khác của Mỹ sẽ không tạo ra rủi ro đáng kể đến khả năng sinh lời và/hoặc khả năng thanh toán của các ngân hàng tại Việt Nam", ông nhìn nhận.

Các ngân hàng Việt Nam cũng nắm giữ trái phiếu Chính phủ trên bảng cân đối kế toán (ngân hàng ở hầu hết các nước cũng vậy nhưng lưu ý rằng ở Việt Nam không có chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp) và giá trái phiếu Chính phủ Việt Nam (TPCP) kỳ hạn 10 năm đã giảm khoảng 15% kể từ giữa năm 2021 khi lợi suất tăng, mặc dù lợi suất đã đạt đỉnh trong biểu đồ dưới đây.

Tuy nhiên, TPCP chỉ chiếm khoảng 6% tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết và trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn (HTM) chiếm chưa đến 2% tổng tài sản. Con số này thấp hơn nhiều so với mức 5-10% điển hình của các ngân hàng Mỹ và thấp hơn nhiều so với mức khoảng 45% tài sản của SVB nằm ở trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn trên bảng cân đối kế toán.

Nói cách khác, trái phiếu Chính phủ Việt Nam tăng lợi suất có thể đã tạo ra khoản lỗ hơn 3 tỷ USD cho các ngân hàng niêm yết của Việt Nam, tương đương với hơn 5% tổng vốn chủ sở hữu cấp I của các ngân hàng này, đồng thời không có ngân hàng nào có tiềm ẩn một khoản lỗ lớn so với vốn chủ sở hữu của mình.

Ngoài ra, mặc dù SVB được báo cáo có khoản lỗ tiềm ẩn khoảng 15 tỷ USD trong danh mục đầu tư (hơn nhiều so với 12 tỷ USD vốn chủ sở hữu), nhưng lý do chính khiến SVB sụp đổ là lượng tiền gửi giảm đáng kể, buộc ngân hàng này phải ghi nhận khoản lỗ trên danh mục đầu tư chứng khoán của mình. Tình huống này cũng khó xảy ra ở Việt Nam.

Cụ thể, lượng tiền gửi sụt giảm của SVB đã khiến ngân hàng này phải bán trái phiếu kho bạc và chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp để huy động tiền mặt trả cho người gửi tiền và điều này thể hiện thành các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư chứng khoán của họ.

Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam đảm bảo rằng tiền gửi luôn được bảo vệ trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng trước đây, mặc dù hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi chỉ là khoảng 5.000 USD.

Do đó, người gửi tiền ở Việt Nam được khuyến nghị không rút tiền đột ngột khi một ngân hàng tại Việt Nam gặp khó khăn bởi Chính phủ sẽ đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng sụp đổ.

"Sau tất cả những điều đề cập như trên, nguy cơ sụp đổ của một ngân hàng như SVB ở Việt Nam là rất thấp, bởi những sự việc tác động lên SVB không có khả  năng xảy ra (nghĩa là người gửi tiền không được khuyến khích rút tiền đột ngột từ ngân hàng khi có khủng hoảng) và các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của các ngân hàng Việt Nam không đủ lớn để tác động đáng kể đến khả năng sinh lời và/hoặc khả năng thanh toán", ông Michael Kokalari đánh giá.

Ông Michael Kokalari cũng khẳng định sự sụp đổ của SVB dường như không có ảnh hưởng đáng kể nào đến nền kinh tế Việt Nam, dù Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với thặng dư thương mại tương đương khoảng 20% GDP. Xuất khẩu sang Mỹ đã chậm lại trước khi SVB sụp đổ, chủ yếu là do hàng tồn kho của các nhà bán lẻ lớn và các công ty hàng tiêu dùng khác như Nike ở Mỹ đã tăng khoảng 20% vào năm ngoái.

Dù vậy, sự sụp đổ của SVB sẽ làm cho xuất khẩu sang Mỹ tăng trưởng chậm thêm. Nhu cầu đối với các sản phẩm "Made in Vietnam" khó có thể phục hồi cho đến nửa cuối năm 2023, bất kể các diễn biến trong lĩnh vực ngân hàng ở Mỹ.

Thậm chí, phản ứng của chính phủ Mỹ đối với sự sụp đổ của SVB đã khiến lãi suất của Mỹ giảm và hạ kỳ vọng tăng lãi suất, từ đó tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước giảm 1 điểm % lãi suất điều hành vào đầu tuần trước.

VinaCapital nhận thấy "Chương trình tài trợ có kỳ hạn của ngân hàng" được đưa ra để đối phó với sự sụp đổ của SVB sẽ có thể tạo thêm thanh khoản mới cho đồng USD, điều này sẽ tiếp tục giảm áp lực lãi suất và giá trị của đồng USD trong những tháng tới.

Lãi suất ở Mỹ và toàn cầu giảm và đồng USD yếu đi sẽ dẫn đến thanh khoản của các ngân hàng Việt Nam được cải thiện, cũng như lãi suất thấp hơn ở Việt Nam. Trong khi đó, Credit Suisse cũng đang phải đối mặt với các vấn đề thanh khoản nghiêm trọng.

Vấn đề cũng sẽ được giải quyết bằng việc Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ cung cấp thanh khoản cho ngân hàng này và cũng gây áp lực khiến lãi suất toàn cầu giảm. Điều này sẽ mang lại nhiều thanh khoản hơn cho nền kinh tế toàn cầu, gián tiếp mang lại lợi ích cho nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thực tế, VNĐ đã tăng giá khoảng 1% trong hai tuần qua trong đó có đợt tăng giá ngay sau khi chính phủ Mỹ hỗ trợ người gửi tiền tại SVB vào cuối tuần trước. Sự tăng giá này, cùng với việc lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 2 năm giảm hơn 1 điểm % trong tuần trước đã cho phép Ngân hàng Nhà nước định hướng lãi suất VNĐ thấp hơn.

Ông Michael Kokalari phân tích:"Một trong những lý do quan trọng nhất mà VinaCapital cho rằng câu chuyện của SVB và Credit Suisse sẽ có lợi cho Việt Nam vì cả hai đều có khả năng dẫn đến việc VNĐ tăng giá so với USD. Điều này sẽ bơm thanh khoản bằng VNĐ vào nền kinh tế vì NHNN thường tích lũy dự trữ ngoại hối thông qua các biện pháp can thiệp 'không trung hòa' trên thị trường ngoại hối, dẫn đến việc tăng cơ sở tiền tệ của quốc gia".

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ