Nhiều ngân hàng kỳ vọng lãi lớn

Nhàđầutư
Sau năm 2021 khá tích cực, nhiều ngân hàng tiếp tục đặt kế hoạch kinh tham vọng trong năm nay, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận từ 19-22%, có đơn vị tới hơn 30%.
ĐÌNH VŨ
21, Tháng 03, 2022 | 07:00

Nhàđầutư
Sau năm 2021 khá tích cực, nhiều ngân hàng tiếp tục đặt kế hoạch kinh tham vọng trong năm nay, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận từ 19-22%, có đơn vị tới hơn 30%.

Giao-dich-ngan-hang- tien-12

Nhiều yếu tố hỗ trợ ngành ngân hàng trong năm nay. Ảnh: Trọng Hiếu.

Tổng lợi nhuận trước thuế của 27 ngân hàng niêm yết/ giao dịch trên sàn chứng khoán trong năm 2021 đạt hơn 197.420 tỷ đồng, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng trưởng cao so với mặt bằng doanh nghiệp niêm yết nói chung.

Bước sang năm 2022, nhiều đơn vị tiếp tục đưa ra kế hoạch kinh doanh khả quan. 

Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) là ngân hàng đầu tiên tổ chức thành công ĐHĐCĐ thường niên năm 2022. Tại Đại hội, VIB ước lãi quý I/2022 đạt 2.200 tỷ đồng, tăng trưởng 24-25% so với cùng kỳ và tương đương 21% kế hoạch năm, với tăng trưởng tín dụng trên 5%. Năm 2022, ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận 10.500 tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2021; tổng tài sản, tổng dư nợ tín dụng và huy động vốn đều tăng 30% lên lần lượt là 402.500 tỷ đồng, 265.600 tỷ đồng và 280.600 tỷ đồng.

Trước đó, dù chưa chính thức tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2022 nhưng nhiều ngân hàng cũng đã tiết lộ kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh trong quý I/2022.

Chiều ngày 15/3, ông Lưu Trung Thái, Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc MBB cho biết, lợi nhuận hợp nhất quý I của ngân hàng đạt khoảng 5.500 tỷ đồng. Trong 5 năm tới, MB phấn đấu đạt doanh thu 120.000 tỷ đồng (tương đương mức tăng trưởng 24%/năm) và lợi nhuận 45.000 tỷ đồng (tương đương tăng 21%/năm) vào năm 2026.

Cuối tháng 2, ông Nguyễn Hoàng Linh, Tổng giám đốc MSB cho biết, tháng 1/2022 đã cho thấy những con số tích cực trong hoạt động của ngân hàng. Thương vụ chuyển nhượng FCCOM sẽ mang lại cho MSB khoản lợi nhuận khoảng 2.000 tỷ đồng. Vì thế, ngân hàng này dự kiến lợi nhuận năm 2022 đạt 6.800 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng trưởng 30%; quy mô tài sản đạt 230.000 tỷ đồng. 

Tại ĐHĐCĐ năm 2021 bất thường tổ chức thành công mới đây, Ban điều hành Eximbank đã đề xuất kế hoạch tham vọng cho năm 2022 với mục tiêu lợi nhuận trước thuế tăng trên 100%.

Cụ thể, Eximbank dự kiến ghi nhận tổng tài sản đạt 179.000 tỷ đồng, tăng 7,8% so với năm 2021. Trong đó, huy động vốn ngân hàng đến cuối năm đạt 147.600 tỷ, tăng 6,5% và dư nợ cấp tín dụng bao gồm cả trái phiếu doanh nghiệp là 131.400 tỷ đồng, tăng 13,5%. Eximbank kỳ vọng thu về 2.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2022, tăng 107% so với mức thực hiện năm 2021.

Theo kế hoạch kinh doanh năm 2022, OCB dự kiến tăng trưởng lợi nhuận ở mức 25% – 30%; duy trì cổ tức từ 20% – 25% cho cổ đông. 

Không chỉ các ngân hàng cổ phần, khối quốc doanh cũng đã hé lộ những kế hoạch kinh doanh sơ bộ trong năm 2022.

Cụ thể, tại hội nghị triển khai công tác hoạt động kinh doanh năm 2022, lãnh đạo Vietcombank cho biết, ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng tổng tài sản 8%, tín dụng tăng 12%, tỷ lệ nợ xấu dưới 1,5%, lợi nhuận trước thuế tăng tối thiểu 12%. 

Tương tự, VietinBank đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận riêng lẻ và hợp nhất trước thuế năm 2022 đạt 10% - 20%; tổng tài sản tăng trưởng khoảng 5% - 10%; tín dụng tăng trưởng khoảng 10% - 14%; nguồn vốn huy động tăng trưởng 10% - 12%; tỷ lệ nợ xấu dưới 2%.

COVID-19 không ảnh hưởng quá lớn tới lợi nhuận ngân hàng

Báo cáo phân tích của Chứng khoán BSC cho rằng, triển vọng lợi nhuận năm 2022 của các ngân hàng khá sáng do cầu tín dụng tăng mạnh, nợ xấu không quá đáng ngại.

Cụ thể, BSC cho rằng năm 2022, nhu cầu tín dụng sẽ tiếp tục ở mức cao và có thể tăng khoảng 14%, được hỗ trợ bởi sự phục hồi của nền kinh tế sau dịch bệnh, chương trình hỗ trợ phục hồi nền kinh tế.

Biên lãi thuần (NIM) trong năm 2022 sẽ tăng 35 điểm cơ bản so với năm 2021 nhờ tăng trưởng tín dụng cao, lãi suất cho vay phục hồi sau thời gian hỗ trợ và tăng cơ cấu CASA trong năm 2022 giúp giảm chi phí vốn.

BSC kỳ vọng tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng sẽ đạt mức 22,2% nhờ kinh tế phục hồi sau dịch và mức nền lợi nhuận thấp hơn trong năm 2021.

Mặt khác, theo BSC, chất lượng tài sản được dự báo sẽ trong tầm kiểm soát khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao và đang được cải thiện.

"Dù có sự ảnh hưởng giảm chất lượng tài sản, với chính sách kiểm duyệt tín dụng chặt chẽ và tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, các ngân hàng có thể quản lý chất lượng tài sản tốt và giữ ở mức như hiện nay, với tỷ lệ nợ xấu 1,6-1,7% dư nợ. Một số ngân hàng đã tăng trích lập dự phòng, và cải thiện mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu" báo cáo BSC cho biết.

BSC cho rằng dư nợ tái cơ cấu sẽ không quá ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng do tổng thu nhập tạo ra ở mức cao, đủ khả năng trích lập thêm mà không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng; và dự kiến các khoản nợ tái cơ cấu sẽ không tăng nhiều nhờ sự mở cửa lại của nền kinh tế.

Tuy dịch COVID-19 có tác động tiêu cực vào nhu cầu tín dụng cũng như dự phòng của các ngân hàng nhưng ảnh hưởng này không làm điều chỉnh giảm quá nhiều lợi nhuận ngành. Do đó, BSC cho rằng, sức khỏe tài chính của các ngân hàng hiện nay xứng đáng có mức định giá cao hơn so với thời điểm hiện tại.

SSI Research cũng ước tính, tăng trưởng lợi nhuận trước thuế trung bình của các ngân hàng năm 2022 là 21% so với năm 2021. Ước tính này chưa bao gồm thu nhập bất thường tiềm năng từ phí phân phối bảo hiểm độc quyền qua ngân hàng (bancassurance) hoặc thoái vốn công ty con của VietinBank, HDBank, Techcombank, MB...

Bên cạnh đó, SSI cho rằng, các ngân hàng TMCP có vốn Nhà nước ước tính tăng trưởng lợi nhuận ở mức 19%, trong khi các ngân hàng TMCP khác có thể đạt mức tăng trưởng tới 22% so với năm 2021 do triển vọng tăng trưởng tín dụng tươi sáng hơn. Bên cạnh đó, trong nửa đầu năm 2022, tăng trưởng lợi nhuận sẽ ở mức khiêm tốn và chỉ thật sự bứt phá mạnh hơn từ quý II với VietinBank, Vietcombank, MB và từ quý III với các ngân hàng khác.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ