Mỹ, EU và các nước thuộc CPTPP giúp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 5 tháng đầu năm 2021 tăng 14%

Nhàđầutư
Mỹ, EU và các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang là những thị trường có vai trò chi phối tăng trưởng xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
PHƯƠNG LINH
04, Tháng 06, 2021 | 16:02

Nhàđầutư
Mỹ, EU và các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang là những thị trường có vai trò chi phối tăng trưởng xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, sau khi tăng 22% đạt 749 triệu USD trong tháng 4/2021, xuất khẩu (XK) thuỷ sản của cả nước tiếp đà hồi phục với mức tăng lạc quan hơn trong tháng 5, tăng 24% đạt gần 790 triệu USD. Theo đó, kết quả XK luỹ kế 5 tháng đầu năm cũng khả quan hơn, tăng 14% đạt 3,27 tỷ USD.

Trong đó, XK tôm tăng 25% trong tháng 5 đạt 375 triệu USD, sau khi đạt trên 300 triệu USD trong tháng 4, tăng 23%. Tính đến hết tháng 5, XK tôm của Việt Nam đạt 1,34 tỷ USD, tăng 14%.

XK cá tra cũng đang hồi phục cao hơn dự kiến với mức tăng 26% đạt 134 triệu USD trong tháng 5, sau khi tăng 25,8 triệu USD đạt 145 triệu USD trong tháng 4. Kim ngạch XK cá tra 5 tháng đầu năm đạt 623 triệu USD, tăng 12%.

xk-ts

Xuất khẩu thuỷ sản 5 tháng đầu năm 2021 tăng 14%. Ảnh: VASEP

Tính đến cuối tháng 5/2021, XK các mặt hàng hải sản đạt 1,3 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, XK cá ngừ chiếm 22% với 292 triệu USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2020.

Đặc biệt, trong 2 tháng 4 và 5, XK cá ngừ gần như tăng gấp 1,5 lần so với cùng kỳ năm trước, là những tín hiệu tích cực cho xu hướng những tháng tới. XK các loại cá biển khác chiếm 53% XK hải sản với 698 triệu USD trong 5 tháng đầu năm, tăng 12%. XK mực, bạch tuộc tăng 11% đạt 212 triệu USD cũng hồi phục khả quan từ tháng 3 đến nay. XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ cũng tăng mạnh 81% trong tháng 5 góp phần đưa kết quả 5 tháng đầu năm lên gần 49 triệu USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái.

VASEP nhận định nguồn cung nguyên liệu thủy sản để chế biến xuất khẩu hiện nay khá ổn định, nhất là với các mặt hàng tôm, cá tra. Nguồn nguyên liệu hải sản nhập khẩu khó khăn hơn do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Do vậy, yếu tố chính quyết định sự phục hồi xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong giai đoạn hiện tại chính là thị trường.

Theo đó, Mỹ, EU và các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang là những thị trường có vai trò chi phối tăng trưởng xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

Tại Mỹ, nhu cầu tiêu thụ thủy sản đang có động lực hồi phục “thần tốc” không chỉ ở phân khúc bán lẻ mà cả các kênh dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, giải trí sau khi nhờ triển khai nhanh và rộng rãi chiến dịch tiêm phòng COVID-19 cùng với gói kích thích kinh tế kịp thời của chính phủ.

Sau một thời gian bị “kìm nén” do hạn chế, giãn cách chống dịch COVID-19, nhu cầu tiêu thụ của người Mỹ “bùng nổ” không chỉ với những mặt hàng như tôm, cá ngừ, cá hồi vốn là sở thích và thói quen tiêu dùng của họ, mà còn tăng mạnh với cả các loài thủy sản khác như: cá tra, mực, bạch tuộc, cua ghẹ và nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

Tôm luôn nằm trong top đầu tiêu thụ thủy hải sản tại Mỹ, ước tính kim ngạch xuất khẩu tôm sang Mỹ 5 tháng đầu năm 2021 đạt 270 triệu USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.

Với việc chiếm 21% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, sự hồi phục của thị trường Mỹ được đánh giá là đòn bẩy cho xuất khẩu tôm Việt Nam tăng trưởng mạnh hơn trong những tháng tiếp theo, nhất là khi nước Mỹ mở cửa hoàn toàn 50 bang từ ngày 20/5/2021.

Theo các doanh nghiệp, tôm Việt Nam đang có cơ hội lớn để tăng thị phần tại thị trường Mỹ khi Ấn Độ bị ảnh hưởng dịch COVID-19 nặng nề và Trung Quốc bị giảm xuất khẩu do chiến tranh thương mại Mỹ- Trung.

Tuy nhiên, tôm Việt cũng chịu sự cạnh tranh khá gay gắt từ Ecuador và Indonesia, do đó doanh nghiệp cần theo dõi sát diễn biến thị trường và có chiến lược xuất khẩu hợp lý.

Sau tôm, cá ngừ cũng được dự báo sẽ có cơ hội tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ, nhất là cá ngừ đóng hộp vì đây là món yêu thích của người Mỹ.

Tính đến hết tháng 5, xuất khẩu cá ngừ sang Mỹ đạt 130 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ cũng đang dẫn đầu các thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, chiếm 42% tổng kim ngạch xuất khẩu. 

Xuất khẩu cá tra sang Mỹ đang trên đà phục hồi và bứt phá với mức tăng lên tới 136% trong tháng 4 và khoảng 200% trong tháng 5, đưa kết quả xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2021 lên 135 triệu USD, tăng 57% so với cùng kỳ năm 2020.

Cùng với Mỹ, thị trường EU đang là điểm đến kỳ vọng của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Mặc dù sự hồi phục kinh tế của khối thị trường này chậm hơn so với Mỹ, nhưng nhu cầu tiêu thụ đang hồi phục rõ rệt khi dịch COVID-19 dần được khống chế.

Các nhà nhập khẩu EU có xu hướng quan tâm hơn đến các nhà cung cấp thuỷ sản Việt Nam với lợi thế thuế quan từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và nguồn nguyên liệu ổn định.

Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU tháng 5 đạt gần 95 triệu USD, tăng 30%. Lũy kế xuất khẩu 5 tháng đầu năm sang EU đạt trên 380 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong số đó, tôm vẫn chiếm tỷ trọng chi phối 50% với gần 199 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi xuất khẩu tôm và các mặt hàng hải sản sang EU đều có chiều hướng tích cực, thì xuất khẩu cá tra sang EU chưa có dấu hiệu hồi phục, tiếp tục sụt giảm trên 25% so với cùng kỳ năm 2020.

Ngoài Mỹ, EU, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường có hiệp định thương mại tự do cũng ghi nhận sự tăng trưởng tích cực. Trong 5 tháng đầu năm nay xuất khẩu thủy sản sang Australia tăng 65%, sang Canada tăng 12%, sang Anh tăng 17%.

Những thị trường này đều chiếm tỷ trọng từ 3,3-4% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam và được đánh giá sẽ có vai trò đáng kể thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2021 và những năm tới.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ