Lợi nhuận ngành ngân hàng giảm tốc

Nhàđầutư
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng thấp, NIM thu hẹp, đa số các phân tích gần đây đều chung nhận định, lợi nhuận ngân hàng quý II sẽ giảm tốc, cả năm 2023 khó đạt mức tăng trưởng trên 10%.
ĐÌNH VŨ
18, Tháng 07, 2023 | 17:20

Nhàđầutư
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng thấp, NIM thu hẹp, đa số các phân tích gần đây đều chung nhận định, lợi nhuận ngân hàng quý II sẽ giảm tốc, cả năm 2023 khó đạt mức tăng trưởng trên 10%.

Giao dich Tien Coc tien

Lợi nhuận ngân hàng năm 2023 được dự báo chỉ tăng khoảng 10%. Ảnh: Trọng Hiếu.

Trong báo cáo vừa công bố, chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng, lợi nhuận trước thuế toàn ngành ngân hàng năm nay dự kiến chỉ đạt khoảng 10%, giảm mạnh so với năm ngoái. Nguyên nhân là do tín dụng năm nay tăng thấp (khoảng 12%) và biên lãi thuần (NIM) thu hẹp.

Đáng lưu ý, lợi nhuận ngân hàng dự kiến tiếp tục phân hóa mạnh, với một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm trong trường hợp thị trường bất động sản và tình hình vĩ mô thế giới xấu đi. 

Theo VCBS, trong quý I, NIM toàn ngành ngân hàng đã giảm xuống 3,68% từ mức 3,81% cuối năm 2022. NIM dự kiến tiếp tục thu hẹp trong quý II khi nguồn vốn huy động giá cao vẫn chưa được hấp thụ hết, đồng thời với việc nguồn vốn giả rẻ CASA (tiền gửi thanh toán) giảm mạnh. Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước có NIM duy trì mức thấp do áp lực giảm lãi suất hỗ trợ với các gói vay ưu đãi quy mô lớn từ đầu 2023. Với nhóm ngân hàng nhỏ, NIM sẽ cải thiện rõ rệt khi các khoản tiền gửi lãi suất cao dần đáo hạn.

Các chuyên gia VCBS kỳ vọng, nửa cuối năm 2023, việc lãi suất hạ nhiệt sẽ tạo động lực tăng cho nhu cầu tín dụng và kỳ vọng sẽ kéo tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành cải thiện mạnh mẽ so với nửa đầu năm. NIM có khả năng cải thiện nhờ lãi suất huy động giảm. 

Tại hội nghị Hội nghị Sơ kết hoạt động Ngân hàng 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra mới đây, đại diện các ngân hàng thương mại đã có báo cáo về kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm với kết quả không quá khả quan.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho biết, tính đến hết tháng 6 năm 2023, huy động vốn, tín dụng của Vietcombank tăng trưởng lần lượt 6,6% và 2,6%; quy mô tương ứng 1,3 và 1,2 triệu tỷ đồng. 

Trong 6 tháng đầu năm, Vietcombank đã tiên phong thực hiện 10 đợt giảm lãi suất huy động, 5 đợt giảm lãi suất cho vay cho tất cả các phân khúc khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Lũy kế đến hết 30/06/2023, Vietcombank đã giảm gần 1.300 tỷ đồng tiền lãi cho hơn 242.000 lượt khách hàng với dư nợ lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng, chiếm ~87% tổng dư nợ của VCB.

Ông Nguyễn Đức Vinh, TGĐ VPBank cũng cho biết, VPBank đã hưởng ứng các chỉ đạo của NHNN, giảm lãi suất huy động, đồng thời giảm lợi nhuận để hỗ trợ nền kinh tế với mức giảm  hiện đạt khoảng hơn 1.000 tỷ đồng để giảm 2-3% lãi suất.

Theo ước tính kết quả kinh doanh quý II/2023 và 6 tháng đầu năm 2023 của 11/27 ngân hàng niêm yết chia sẻ gần đây, lợi nhuận tiếp tục tăng trưởng nhưng giảm tốc đáng kể. Cụ thể, tăng trưởng lợi nhuận so với cùng kỳ ở mức khoảng 3,5%, thấp hơn đáng kể so với mức tăng trong quý I/2023 là 11,6%.

Trước đó, Công ty cổ phần Chứng khoán SSI ước tính có 4/11 ngân hàng niêm yết được công ty này nghiên cứu sẽ sụt giảm lợi nhuận trong quý II/2023 so với cùng kỳ, bao gồm: ACB, Techcombank, TPBank và VPBank.

Trong số này, TPBank có mức sụt giảm lợi nhuận dự báo mạnh nhất từ 21 - 25% so với cùng kỳ năm 2022.

Trên thực tế, đã có ngân hàng đầu tiên công bố lợi nhuận sụt giảm sau 6 tháng với mức giảm gần 32% so với cùng kỳ năm 2022 là LPBank với mức lợi nhuận trước thuế ước đạt 2.446 tỷ đồng, hoàn thành 41% kế hoạch năm nhưng giảm 31,8% so với cùng kỳ năm 2022. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26797.00 26905.00 28111.00
GBP 31196.00 31384.00 32369.00
HKD 3185.00 3198.00 3303.00
CHF 27497.00 27607.00 28478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16496.00 16562.00 17072.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18212.00 18285.00 18832.00
NZD   15003.00 15512.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3598.00 3733.00
SEK   2304.00 2394.00
NOK   2295.00 2386.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ