Kim ngạch xuất khẩu dệt may dự kiến vượt 1 tỷ USD

Nhàđầutư
Với những diễn biến mới của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung theo hướng đang có lợi cho hàng hóa của Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, dự kiến kim ngạch xuất khẩu dệt may việt Nam năm 2018 sẽ đạt 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.
BẢO ANH
18, Tháng 07, 2018 | 09:45

Nhàđầutư
Với những diễn biến mới của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung theo hướng đang có lợi cho hàng hóa của Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, dự kiến kim ngạch xuất khẩu dệt may việt Nam năm 2018 sẽ đạt 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.

detmay

Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm 2018 sẽ đạt 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch

Dự kiến vượt 1 tỷ USD

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 6 tháng đầu năm ước đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo dự báo, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong 6 tháng đầu năm cùng với những diễn biến mới của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung theo hướng có lợi cho hàng hóa của Việt Nam cũng như nhập khẩu nguyên phụ liệu đang tăng nhanh, dự kiến, xuất khẩu của hàng dệt may trong 6 tháng cuối năm 2018 sẽ đạt tốc độ tăng trưởng tốt, kim ngạch ước đạt 18,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 35 tỷ USD, vượt 1 tỷ USD so với kế hoạch.

Cụ thể, riêng mặt hàng may mặc đạt 12,86 tỷ USD, tăng 15,27%, tăng khá so với mức tăng 8,32% của năm 2017. Mặt hàng vải đạt 787 triệu USD với mức tăng trưởng rất tốt 31,83%, các mặt hàng có giá trị gia tăng cao cũng có mức tăng trưởng tốt như xơ sợi tăng 19%, vải địa kỹ thuật tăng 11,8%, phụ liệu dệt may tăng 19,1%.

Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 10,78 tỷ USD, tăng 15,99% so cùng kỳ năm 2017. Giá trị thặng dư thương mại đạt 7,6 tỷ USD, tăng 13,87% so cùng kỳ năm ngoái.

Về thị trường xuất khẩu, những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối CPTPP, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN... đều tăng mạnh, tốc độ tăng vượt trội so với cùng kỳ năm 2017; các mặt hàng xuất khẩu bứt phá mạnh trong 6 tháng đầu năm 2018 là vải, áo thun, áo jacket, váy... 

Tình hình đơn hàng của các DN cũng rất khả quan, nhiều DN đã nhận đơn hàng đến hết năm. Một số DN đạt kim ngạch XK điển hình là: Cty TNHH May Tinh Lợi, Tcty CP May Việt Tiến, Cty TNHH Regina Miracle, Cty TNHH Worldon (VN)...

Xuất khẩu 6 tháng cuối năm khả quan

Trong 6 tháng đầu năm nay, các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN... đều tăng mạnh, tốc độ tăng vượt trội so với cùng kỳ năm ngoái.

Cùng với những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu như điện thoại các loại và linh kiện (22,5 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (13,45 tỷ USD), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (7,8 tỷ USD), giày dép các loại (7,79 tỷ USD), dệt may đã vươn lên đạt kim ngạch 16,5 tỷ USD.

Hiện, Việt Nam đang tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong các FTA đã ký kết để mở rộng các thị trường xuất khẩu mới. Trong 6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng 9,2%, EU tăng 12,3%, Trung Quốc tăng 28%, Hàn Quốc tăng 31,8%, ASEAN tăng 17,4%,… Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường tiềm năng cũng ghi nhận đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung như: Ấn Độ tăng 96,6%, Irac tăng 27,9%, Ukraina tăng 21,1%, Oxtraylia tăng 22,4%, Nga tăng 25,4%...

Khu vực có vốn đầu tư trong nước đã cải thiện tốc độ tăng trưởng so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực 100% vốn trong nước xuất khẩu ước đạt 33,07 tỷ USD, tăng 19,9%, cao hơn mức tăng 16,3% của năm 2017. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất khẩu ước đạt 80,86 tỷ USD, tăng 14,5%, thấp hơn mức tăng 20,7% của năm 2017.

Xuất khẩu 6 tháng đầu năm có những điểm tích cực được thể hiện qua mức tăng trưởng của xuất khẩu khối doanh nghiệp trong nước. Trong 6 tháng đầu năm, khối doanh nghiệp này xuất khẩu khoảng 33,1 tỷ USD, tăng 19,9%, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu chung. Số liệu xuất khẩu những năm gần đây cho thấy những kết quả tích cực trong mức tăng trưởng của khối doanh nghiệp này. (Năm 2015 xuất khẩu giảm 2,6%; năm 2016 xuất khẩu chỉ tăng 5,5%, năm 2017 xuất khẩu tăng 17,7%).

Theo dõi số liệu xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018, cho thấy xuất khẩu tăng cao ở quý 1 (tăng 24%) nhưng giảm đà tăng trưởng trong quý 2 (cả quý 2 tăng 10%). Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối, bình quân quý 2/2018 xuất khẩu đạt khoảng 19,5 tỷ USD/tháng, cao hơn bình quân quý 1/2018 (18,5 tỷ USD/tháng). Việc tăng trưởng quý 2 đạt mức thấp so với quý 1 là do năm 2017, xuất khẩu quý 1 ở mức thấp, đạt bình quân 14,9 tỷ USD/tháng và chỉ bắt đầu tăng trưởng từ quý 2 với mức bình quân 17,7 tỷ USD/tháng.

Theo các chuyên gia, xuất khẩu 6 tháng cuối năm vẫn có những yếu tố thuận lợi để tăng trưởng. Cụ thể, sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp dự báo tăng tích cực xét trên các yếu tố như: nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước tăng mạnh trong quý I, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng khá. Nhóm hàng điện tử dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng nhờ việc Samsung tiếp tục xuất bán sản phẩm mới trong quý III/2018 và việc dự án Samsung Display tiếp tục đẩy mạnh sản xuất màn hình phục vụ xuất khẩu.

Theo chu kỳ, thông thường xuất khẩu nông, thủy sản tăng vào giữa năm và đạt mức cao nhất vào thời điểm cuối năm; các mặt hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, đồ gỗ đều bước vào mùa vụ xuất khẩu từ giữa Quý II.

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định FTA Việt Nam - EU dự kiến có hiệu lực vào năm 2019 đã và đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp nước ta có thêm năng lực sản xuất mới.

Đầu tư trong nước, được hỗ trợ bởi tâm lý lạc quan, môi trường kinh doanh thuận lợi, chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất ổn định, dự báo cũng sẽ tiếp tục khởi sắc và cùng với đầu tư nước ngoài tạo ra năng lực sản xuất mới.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ