Không phải điện thoại Made-in-Vietnam, đây mới là những mặt hàng "kéo" xuất khẩu tăng trưởng so với năm trước

Theo báo cáo của Bộ Công thương, trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt 31,5 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Có thể thấy, động lực đang kéo tăng trưởng xuất khẩu dương so với 8 tháng năm 2019 không phải là mặt hàng này.
H.S
07, Tháng 09, 2020 | 06:26

Theo báo cáo của Bộ Công thương, trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt 31,5 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Có thể thấy, động lực đang kéo tăng trưởng xuất khẩu dương so với 8 tháng năm 2019 không phải là mặt hàng này.

photo1599361534171-1599361534455551881204

Xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt 31,5 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 8/2020 ước tính đạt 26,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 17 tỷ USD, tăng 8%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 8 tăng 2,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 18,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 4,6%.

Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8/2020 tăng 6,5% so với tháng 7/2020 và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 26,5 tỷ USD là mức cao nhất tính theo tháng trong năm 2020.

Trong tháng 8/2020, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng so với cùng kỳ năm 2019 nhưng xét tới các nhóm hàng, mặt hàng chính vẫn cho thấy sự khó khăn nhất định.

Cụ thể, so với tháng 8/2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng chủ yếu đến từ đà tăng trưởng cao của một số mặt hàng như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với mức tăng 15%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 43,6%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 21,7%. 

Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực khác vẫn sụt giảm so với cùng kỳ năm 2019 như: Điện thoại các loại và linh kiện giảm 10,2%; hàng dệt và may mặc giảm 10,9%, giày dép các loại giảm 11%; xơ, sợi, dệt các loại giảm 14,8%... Một số mặt hàng nông, thủy sản cũng ghi nhận sự sụt giảm như: Thủy sản giảm 1,2%; hạt điều giảm 16,5%; cà phê giảm 0,2%; chè các loại giảm 6,5%; hạt tiêu giảm 3,8%...

Trong tháng 7 và tháng 8/2020, xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện đều tăng trưởng cao ở mức hai con số so với tháng trước (tăng 17,5% trong tháng 7/2020 và tăng 23,7% trong tháng 8/2020) do Samsung cho ra mắt mẫu điện thoại thông minh mới Galaxy Note20 và chính thức bán ra toàn cầu trong tháng 8/2020.

Tính chung 8 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 174,11 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là điểm sáng với kim ngạch xuất khẩu đạt 60,80 tỷ USD, tăng 15,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 113,31 tỷ USD (chiếm 65,1% tổng kim ngạch xuất khẩu), giảm 4,5%.

Trong 8 tháng có 27 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 89,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại và linh kiện đạt 31,5 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 19,2 tỷ USD, giảm 11,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27,6 tỷ USD, tăng 24,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 15,1 tỷ USD, tăng 31,9%; giày dép đạt 10,9 tỷ USD, giảm 8,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 7,3 tỷ USD, tăng 9,6%; thủy sản đạt 5,2 tỷ USD, giảm 5,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 5,2 tỷ USD, giảm 9,5%. 

Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông sản đều giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 2,3 tỷ USD, giảm 11,3%; hạt điều đạt 2 tỷ USD, giảm 5,4% (lượng tăng 9%); cà phê đạt 2 tỷ USD, giảm 1,3% (lượng giảm 1,3%); cao su đạt 1,2 tỷ USD, giảm 12,7% (lượng giảm 5,9%); hạt tiêu đạt 445 triệu USD, giảm 20% (lượng giảm 7,4%); chè đạt 134 triệu USD, giảm 6,2% (lượng tăng 3,5%). Riêng sản phẩm gạo đạt 2,2 tỷ USD, tăng 10,4% (lượng giảm 1,7%).

(Theo Báo dân sinh)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ