Hai ông lớn ngành bia trở lại đường đua

Nhàđầutư
Bất chấp những ảnh hưởng nặng nề từ tác động kép của quy định về sử dụng rượu bia và đại dịch COVID-19, hai ông lớn ngành bia là Sabeco và Habeco đều ghi nhận kết quả tích cực trong quý 3/2020.
NHẬT HUỲNH
31, Tháng 10, 2020 | 09:54

Nhàđầutư
Bất chấp những ảnh hưởng nặng nề từ tác động kép của quy định về sử dụng rượu bia và đại dịch COVID-19, hai ông lớn ngành bia là Sabeco và Habeco đều ghi nhận kết quả tích cực trong quý 3/2020.

anh-bia-ha-noi

 

Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco - SAB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2020 với doanh thu thuần đạt 8.052 tỷ đồng, giảm 17,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này phần nào phản ánh những tác động của Nghị định 100 và làn sóng COVID-19 gây ra với ngành này.

Tuy nhiên trong kỳ nhờ việc tiết giảm các khoản chi phí tốt nên giá vốn hàng bán giảm dẫn đến lợi nhuận gộp tăng 3%, đạt mức 2.472 tỷ đồng. Đây là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận ròng Sabeco đạt 1.470 đồng, tăng nhẹ 1% so với quý 3 năm ngoái. Lợi nhuận sau thuế thuộc về cổ đông công ty mẹ 1.393 tỷ đồng.

Lợi nhuận quý 3 tăng trưởng, dù chỉ ở mức thấp, nhưng cho thấy việc dường như ban điều hành người Thái đã tìm ra giải pháp đem về hiệu quả cuối cùng, bất chấp những ảnh hưởng ngoại lai bởi hai quý 1/2020 và 2/2020 trước đó, lợi nhuận ròng của Sabeco giảm lần lượt 44% và 21%.

Lũy kế 9 tháng đầu năm, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Sabeco lần lượt ở mức 20.905 tỷ đồng và 3.403 tỷ đồng.

Trong năm 2020, Sabeco đặt kế hoạch kinh doanh khá dè dặt với doanh thu giảm 37% về 23.800 tỷ đồng, lãi sau thuế giảm 39% về 3.252 tỷ đồng. Đây là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây của Tổng Công ty. Như vậy, 9 tháng đầu năm Sabeco đã thực hiện được 87,8% chỉ tiêu doanh thu và vượt chỉ tiêu lợi nhuận ròng đề ra hơn 150 tỷ đồng.

Trước đó chia sẻ tại ĐHĐCĐ thường niên 2020, Sabeco cũng kỳ vọng đà tăng trưởng tiêu thụ bia nội địa sẽ tiếp tục cải thiện trong 6 tháng cuối năm 2020.

Tại ngày 30/9/2020, tổng tài sản của Sabeco ở mức 27.686 tỷ đồng, tăng 2,5% so với hồi đầu năm, trong đó chủ yếu là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 14.320 tỷ đồng.

Một ông lớn ngành bia khác cũng ghi nhận kết quả tích cực trong quý 3 là Tổng CTCP Bia rượu NGK Hà Nội – Habeco (Mã CK: BHN). Được biết, tại Việt Nam, Habeco hiện là nhà sản xuất bia nội địa lớn thứ 2, chỉ sau Sabeco.

Habeco vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2020 với doanh thu thuần 2.720 tỷ đồng, tăng nhẹ 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Và cũng giống như Sabeco, trong kỳ Habeco cũng đã tiết giảm đáng kể các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, dẫn đến lợi nhuận sau thuế quý 3 tăng gấp đôi, đạt 340,7 tỷ đồng. Đây cũng là con số lợi nhuận lớn nhất của Habeco trong vòng 4 năm qua (tính theo quý).

“Trong năm 2020, Habeco chịu ảnh hưởng lớn từ tác động kép của quy định về sử dụng rượu bia và đại dịch COVID-19 trong những tháng đầu năm. Do vậy, Habeco đã tạm dừng và tiết giảm nhiều hoạt động để chủ động ứng phó kịp thời với các tình huống”, doanh nghiệp này cho biết.

Với kết quả tích cực trong quý 3, lợi nhuận lũy kế 9 tháng đầu năm của Habeco đạt 488 tỷ đồng, tăng nhẹ 3,3% so với cùng kỳ năm trước dù doanh thu giảm gần 16%.

Được biết, với bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn bởi dịch COVID-19, Habeco đặt kế hoạch kinh doanh năm 2020 với chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sản phẩm chính đạt 4.239 tỷ đồng, bằng 56% so với cùng kỳ năm trước; Lợi nhuận sau thuế 248 tỷ đồng, tương đương 49% thực hiện năm trước. 

Như vậy, với kết quả thực hiện trong 9 tháng đầu năm, công ty đã hoàn thành vượt gần gấp đôi chỉ tiêu lợi nhuận đề ra.

Tại ngày 30/9/2020, tổng tài sản của công ty này ở mức 7.739 tỷ đồng, giảm 33 tỷ đồng so với hồi đầu năm. Trong đó tài sản ngắn hạn chiếm 57% chủ yếu là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ