Giá hải sản ở miền Trung giảm mạnh, ngư dân gặp nhiều khó khăn

Nhàđầutư
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, giá nhiều mặt hàng hải sản giảm sâu do sức tiêu thụ, xuất khẩu kém khiến bà con ngư dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, bám biển.
THÀNH VÂN
14, Tháng 05, 2020 | 08:40

Nhàđầutư
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, giá nhiều mặt hàng hải sản giảm sâu do sức tiêu thụ, xuất khẩu kém khiến bà con ngư dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, bám biển.

Tại cảng cá Thọ Quang, quận Sơn Trà (Đà Nẵng) lượng hải sản cập cảng vẫn duy trì với sản lượng ổn định. Tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 3/2020 đến nay, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, sức tiêu thụ thủy, hải sản trên địa bàn thành phố chậm so với bình thường.

Bà Lê Thị Liễu (quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng), một tiểu thương chuyên cung cấp hải sản cho nhà hàng trên địa bàn TP. Đà Nẵng chia sẻ, giá các loại hải sản giảm từ 20 – 50% so với thời điểm trước dịch, đồng thời sức mua giảm do người tiêu dùng giảm bớt chi tiêu. Đặc biệt, các nhà hàng, quán ăn đóng cửa nên sức tiêu thụ hầu như là không có. 

Nhiều mặt hàng hải sản khai thác bị rớt giá là do trong thời gian này, các đầu mối thu mua hải sản để chế biến xuất khẩu hoạt động cầm chừng hoặc tạm ngừng. Vì vậy, lượng hải sản do ngư dân khai thác chủ yếu được bán ra các chợ, sức tiêu thụ không mạnh, nhất là khi hải sản không được tươi.

IMG_8121

Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, giá nhiều mặt hàng hải sản giảm sâu do sức tiêu thụ, xuất khẩu kém đi. 

Thậm chí một số loại hải sản chủ yếu phục vụ cho nhà máy chế biến thủy sản như cá ngừ, cá dũa, cá cờ… không xuất khẩu được nên các doanh nghiệp dừng mua hoặc mua vào rất ít nên hầu hết giá các loại hải sản đều giảm mạnh. Hiện nay, một số tàu cá ở TP. Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung đã chuyển hướng rút ngắn thời gian khai thác để chất lượng cá được nâng lên, dễ tiêu thụ tại các chợ. 

Một số loại cá có chất lượng, giá cao trước đây chủ yếu cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn, quán ăn, xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản thì nay chủ yếu bán chợ, giá giảm từ 15 – 20%. Như cá Mú giá trước dịch 160 nghìn đồng/kg giảm còn 110 nghìn đồng/kg; cá thu 180 nghìn đồng/kg giảm còn 140; cá đổng 120 nghìn đồng/kg giảm còn 80…

Đối với cá xô bán ở chợ giá giảm từ 20 – 25%. Như cá ngừ 70 nghìn đồng/kg giảm còn 55; cá nục 35 nghìn đồng/kg giảm còn 25; mực các loại (mực lá, mực ống) giảm so với giá gốc từ 30 đến 60 nghìn đồng… 

IMG_1486

Dù đang vào mùa cá Nam, nhưng lượng tàu vươn khơi đánh bắt rất hạn chế. 

Các loại cá nhập vào nhà máy chế biến (chủ yếu là cá ngừ, cá dũa, cá cờ…) giá giảm từ 30 – 35%.

Sức tiêu thụ chậm và giá giảm sâu kéo theo đó là một số nghề khai thác không ổn định, nên tàu hạn chế đi biển mặc dù đang vào vụ cá Nam, thời tiết thuận lợi và giá nhiên liệu giảm.

Số lượng tàu thuyền, hàng hóa qua cảng quý I/2020 là 4.853 lượt, so với quý I/2019 là 4.372 lượt, tăng 11,1%. Tuy nhiên, trong mười ngày đầu tháng 4/2020 chỉ có 617 tàu cập cảng bốc dỡ hải sản, so với tháng 4 năm 2019 là 809 lượt, bằng 75,34%.

Khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 19/CT-TTg về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình mới, theo đó, chủ trương từng bước mở lại các hoạt động giải trí, ăn uống, vận tải, du lịch… giá cả hải sản bắt đầu nhích lên. Tuy chưa được như trước đó nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng để ngư dân tiếp tục vươn khơi, bám biển.

Ông Nguyễn Lại, Phó trưởng Ban Quản lý Âu thuyền và Cảng cá Thọ Quang cho biết, hiện nay Ban quản lý tạo điều kiện thuận lợi nhất để giúp cho ngư dân rút ngắn thời gian chuẩn bị, tranh thủ đang vào vụ cá, thời tiết thuận lợi, giá nhiên liệu rẻ nhanh chóng tiếp tục đi biển, ổn định lại hoạt động sản xuất và mua bán. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24810.00 24830.00 25150.00
EUR 26278.00 26384.00 27554.00
GBP 30717.00 30902.00 31854.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26952.00 27060.00 27895.00
JPY 159.41 160.05 167.39
AUD 16033.00 16097.00 16586.00
SGD 18119.00 18192.00 18729.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17923.00 17995.00 18523.00
NZD   14756.00 15248.00
KRW   17.51 19.08
DKK   3529.00 3658.00
SEK   2286.00 2374.00
NOK   2265.00 2354.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ