Cơ chế chính sách thuế thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Nhàđầutư
Tạp chí Nhà Đầu tư trân trọng gửi tới quý độc giả bài viết "Cơ chế chính sách thuế hỗ trợ thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam" của ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn - Bộ Tài chính
Nguyễn Văn Phụng, Chuyên viên cao cấp, Vụ trưởng Quản lý thuế doanh nghiệp lớn
05, Tháng 10, 2018 | 10:38

Nhàđầutư
Tạp chí Nhà Đầu tư trân trọng gửi tới quý độc giả bài viết "Cơ chế chính sách thuế hỗ trợ thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam" của ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn - Bộ Tài chính

mr-phung-0932

 

Khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) ở Việt Nam chính thức được công nhận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986). Tại Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khóa VI), Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, ngành nghề mà pháp luật không cấm.

Nghị quyết số 10–NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về vị thế của kinh tế tư nhân (KTTN) trong thời kỳ mới.

Ngược dòng thời gian lịch sử, chúng ta thấy khu vực KTTN ở Việt Nam chính thức được công nhận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) – Đại hội của Đổi Mới với nhận thức phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Vậy, từ thay đổi trong nhận thức, chủ trương, đường lối của Đảng đến các quy định pháp luật của Nhà nước để áp dụng các cơ chế chính sách nhằm mở đường, hỗ trợ và thúc đẩy khu vực KTTN phát triển cần được xem xét, đánh giá một cách công bằng, khách quan.

Với tư duy đổi mới, hệ thống pháp luật, thể chế và cơ chế quản lý mới đối với nền kinh tế nhiều thành phần được hình thành sau Đại hội VI, trong đó hệ thống thuế của nước ta được nghiên cứu, xây dựng từ những năm 1990 và được áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng.

Qua 4 giai đoạn cải cách thuế quan trọng, cho đến nay Việt Nam đã có được một hệ thống thuế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó khu vực KTTN được đối xử bình đẳng với các khu vực kinh tế khác.

Trong khuôn khổ cuộc Tọa đàm về chủ đề phát triển kinh tế tư nhân do Tạp chí Nhà Đầu tư tổ chức tại Hà Nội, bài viết này đề cập về nội dung cơ chế chính sách thuế hỗ trợ và thúc đẩy phát triển KTTN. Phần thứ nhất của bài viết điểm lại quan điểm của Đảng về phát triển khu vực KTTN qua các kỳ đại hội; Phần thứ hai là các thông tin khái quát về hệ thống thuế Việt Nam sau gần 30 năm Đổi Mới với 4 giai đoạn cải cách thuế quan trọng. Phần thứ ba đề cập đến các nội dung của cơ chế chính sách thuế hỗ trợ và thúc đẩy phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam thời gian qua.

1-  Khu vực kinh tế tư nhân – Quan điểm phát triển của Đảng

KTTN, hiểu theo cách đơn giản nhất, là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), gồm các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh mà trong đó tư nhân nắm giữ sở hữu trên 50% vốn đầu tư. Theo các hiểu khác, KTTN được xem là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể.

Khu vực KTTN được chính thức công nhận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) với đường lối đổi mới toàn diện đất nước và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần – “một đặc trưng của thời kỳ quá độ”. Định hướng được đề ra là “Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân trong một số ngành, nghề, đi đôi với cải tạo họ từng bước bằng nhiều hình thức kinh tế tư bản nhà nước”[2]. Đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi nguồn lực của đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hợp lý.

Tại Đại hội VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng.”[3]

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3/2002) tiếp tục xác định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Tiếp đến, tại Đại hội lần thứ X năm 2006 của Đảng, vai trò quan trọng của khu vực KTTN đã được Đảng xác định là “một trong những động lực của nền kinh tế”. Đặc biệt, Đại hội đã thông qua một quyết định rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân.

Tại Đại hội lần lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta kế thừa và phát triển tư tưởng tiến bộ trên, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của khu vực KTTN và chỉ đạo “hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.

Đáng chú ý nhất là tại Đại hội lần thứ XII của Đảng năm 2016, Đảng ta một lần nữa xác định kinh tế tư nhân giữ vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là đối với tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2016-2020. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 diễn ra vào tháng 5/2017, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 10 /NQ-TW về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong lời phát biểu bế mạc Hội nghị này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu phải “xóa bỏ mọi định kiến, rào cản; cải cách mạnh các thủ tục hành chính rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển”.

Như vậy, có thể nói, phát triển khu vực KTTN là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược, là đường lối xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta. Vấn đề là các cơ chế chính sách cần phải có là những gì, phát triển KTTN theo con đường nào ? Hỗ trợ, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tự hình thành và phát triển; đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước và tạo cơ hội cho tư nhân được bỏ vốn vào các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là những phương thức đã và đang được triển khai áp dụng.

2-  Khái quát hệ thống thuế Việt Nam sau 30 năm Đổi Mới

Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển đổi sang nền kinh tế nhiều thành phần và sau này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho đến nay hệ thống thuế Việt Nam đã trải qua 4 giai đoạn cải cách quan trọng, với những nội dung chủ yếu như sau:

Cải cách thuế giai đoạn I (1990 – 1995):

Nhận thức rõ tầm quan trọng của cải cách thuế, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Quyết định số 05-CT ngày 12/01/1989 thành lập “Tổ chỉ đạo soạn thảo dự án luật mới về các luật thuế” để triển khai công tác nghiên cứu, soạn thảo, lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân. Kết quả là một loạt dự thảo Luật, Pháp lệnh thuế được trình lên Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước và Quốc hội xem xét, thảo luận. Sự kiện đánh dấu khởi đầu của cải cách thuế là ngày 30/6/1990, Quốc hội Việt Nam ban hành 3 đạo luật thuế quan trọng, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế: Thuế Doanh thu, Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và thuế lợi tức. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản Pháp lệnh về thuế tài nguyên (3/1990); Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (tháng 12/1990) và Pháp lệnh về thuế nhà, đất (tháng 7/1992).

Năm 1991, Quốc hội ban hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch năm 1987). Tiếp theo, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) được ban hành ngày 10/7/1993 và Luật Thuế Chuyển quyền sử dụng đất được ban hành ngày 22/6/1994.

Cải cách Thuế giai đoạn I đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, được nhận định rằng: “Thuế bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nguồn thu ngày càng lớn cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Cải cách Thuế giai đoạn I đã làm cho thuế có cơ sở pháp luật vững chắc, áp dụng bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thay thế hẳn hệ thống thu cũ.”[4]

Cải cách thuế giai đoạn II (1996 – 2004)

Trọng tâm của cải cách thuế giai đoạn II là đưa vào áp dụng các sắc thuế hiện đại của nền kinh tế thị trường trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhằm mục tiêu xây dựng nền tài chính quốc gia dựa vào nội lực là chính, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết sẵn sàng cho việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Các đạo luật thuế quan trọng được đưa vào áp dụng trong giai đoạn này gồm có: (i) Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999 thay thế cho Luật Thuế Doanh thu. Thuế GTGT khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu (đánh thuế trùng), tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại và sản xuất kinh doanh; (ii) Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được Quốc hội thông qua cùng ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999, thay thế cho Luật thuế Lợi tức 1990. Ngoài mức thuế suất cao áp dụng đối với lĩnh vực dầu khí, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông 32% (từ năm 2004 hạ xuống còn 28%),[5] được áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì áp dụng mức thuế suất phổ thông 25%.[6] (iii) Để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các sắc thuế trong hệ thống thuế, Luật thuế TTĐB năm 1990 được thay thế bằng Luật thuế TTĐB năm 1998, (sửa đổi năm 2003); Quốc hội cũng sửa đổi Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào năm 2000. (iv) Để thống nhất quản lý phí và lệ phí trong cả nước, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/1999 quy định về quản lý các khoản phí và lệ phí thuộc NSNN. (v) Cùng với việc tham gia ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (đến 2012 Việt Nam đã ký kết 60 Hiệp định), Việt Nam đã đàm phán tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế song phương và đa phương. Hiệp định chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT/AFTA) áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước trong khu vực Đông – Nam Á kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/07/1995.

Các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu cũng được thực hiện khi Việt Nam là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ngày 14/11/1998. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia đàm phán với các nước đối tác về cắt giảm thuế quan, nới lỏng hàng rào phi thuế quan để mở cửa thị trường, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết cho tiến trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Cải cách thuế giai đoạn III (2005 – 2010)

Chương trình cải cách thuế giai đoạn 2005 – 2010 được triển khai thực hiện trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên công nghệ thông tin, khoảng cách giữa các nước được thu lại gần nhau hơn trong một thị trường rộng mở. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các công nghệ quản lý mới đã trở thành xu hướng vận động của hệ thống thuế nhiều nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế Việt Nam trên cả phương diện chính sách và quản lý thuế.

Ngày 06/12/2004 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 201/2004/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu được xác định là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế”.

Ở giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển khá nhưng việc thực hiện các cam kết quốc tế dẫn đến sụt giảm đáng kể nguồn thu từ hàng hóa xuất, nhập khẩu, vốn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu thuế (khoảng 30%). Vì vậy, nội dung cụ thể của cải cách Thuế giai đoạn III là sửa đổi các sắc thuế hiện hành sao cho minh bạch hơn, rõ ràng hơn, đồng thời ban hành một số sắc thuế mới...  thực hiện cơ cấu lại nguồn thu NSNN theo định hướng tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, giảm dần tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thu NSNN.

Trên tinh thần đó, Luật Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) được ban hành tháng 11/2007, có hiệu lực từ 2009 thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thay thế cho thuế chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân. Đồng thời, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số 14/2008/QH12 được Quốc hội ban hành ngày 03/06/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 (thay thế cho Luật Thuế TNDN năm 2003) với nhiều nội dung mới phù hợp với thông lệ quốc tế.[7] Luật thuế GTGT được ban hành năm 2008 thay thế cho Luật thuế GTGT năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này (trong các năm 2003 và 2005). Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với nội dung minh bạch cùng các điều khoản tạo thuận lợi cho cam kết quốc tế được ban hành tháng 6 năm 2005 và thay thế cho Luật năm 2001. Luật thuế TTĐB năm 2008 cũng được ban hành với nội dung mở rộng diện điều chỉnh, đồng thời công bố rõ lộ trình tăng thuế suất đối với thuốc lá, rượu, bia và đồ uống có cồn. Luật Thuế Tài nguyên được ban hành năm 2009 nhằm góp phần tạo thêm nguồn thu NSNN và góp phần tham gia bảo vệ tài nguyên, khoáng sản.[8]

Về công tác quản lý thuế, tháng 11/2006, lần đầu tiên Quốc hội thông qua Luật quản lý thuế với hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007, Luật quy định quyền và trách nhiệm của Người nộp thuế (NNT) trong việc tự tính, tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm về nghĩa vụ thuế. Thống nhất quy định các nội dung của công tác quản lý đối với tất cả các loại thuế, khoản thu thuộc NSNN; cơ quan quản lý thuế thực hiện việc tuyên truyền, hỗ trợ NNT tuân thủ pháp luật, thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền đối với các vi phạm về thuế... là những nội dung đổi mới trong hệ thống thuế rất đáng được ghi nhận.

Cải cách hệ thống thuế giai đoạn IV (2011 – 2020)

Cải cách thuế giai đoạn này được đánh dấu bằng sự kiện Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 732/2011/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 phê duyệt Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.”

Theo như Chiến lược cải cách thuế đã đề ra, Hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2011-2020 bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu sau đây:

(1) Thuế giá trị gia tăng;

(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt;

(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;

(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp;

(5) Thuế thu nhập cá nhân;

(6) Thuế tài nguyên;

(7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp;

(8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;

(9) Thuế bảo vệ môi trường;

(10) Các khoản phí và lệ phí.

Thuế môn bài sẽ được chuyển thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh hàng năm; đồng thời hoàn thiện các chế độ chính sách thu ngân sách nhà nước từ tài nguyên, khoáng sản quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu đấu giá quyền khai thác khoáng sản và thu từ dầu khí.

Thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành và đưa vào thực hiện Luật Thuế Bảo vệ môi trường (2010), Luật Thuế Sử dụng đất phi nông nghiệp (2011) thay thế cho thuế nhà, đất; ban hành Nghị quyết về Biểu khung thuế suất thuế tài nguyên (2013, 2015), Luật Phí và lệ phí (2015).

Những năm gần đây, trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến động không thuận lợi, Chính phủ đã nhiều lần trình Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung các luật thuế trụ cột của hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế. Chế độ thu tiền sử dụng đất (SDĐ), tiền thuê đất theo khung khổ của Luật đất đai và Chiến lược cải cách hệ thống thuế đã được Chính phủ ban hành tại các Nghị định 45 và 46/2014 (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 135/2016/NĐ-CP ngày 9/9/2016).

Năm 2013, Quốc hội ban hành Luật số 31/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12, thông qua Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12.

Ngày 26/11/2014, Quốc hội ban hành Luật số 70/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12. Cùng ngày, Quốc hội han hành Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của 5 đạo luật về chính sách, về quản lý thuế và hải quan.[9]

Việc đề xuất ban hành một luật sửa đổi nội dung nhiều luật là cách làm mới trong những năm gần đây bởi tính kịp thời khắc phục những bất cập của luật pháp trước đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Việc này không chỉ tiết kiệm thời gian và kinh phí cho đất nước mà còn bảo đảm tính đồng bộ giữa chính sách với quản lý thuế, tạo thuận lợi cho cả người dân và cơ quan quản lý thuế, hải quan. Đặc biệt, một luật sửa nhiều luật qua thực tế cho thấy sẽ bảm đảm được tính đồng bộ của cả hệ thống thuế cũng như sự thay thế hoặc bổ sung cho nhau giữa các sắc thuế trong hệ thống … Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu áp dụng để kịp sửa đổi các quy định pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhưng có liên quan đến thuế.

3-  Chính sách thuế hỗ trợ và thúc đẩy phát triển khu vực KTTN trong thời gian qua.

Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam qua các giai đoạn cải cách như đã nêu tại phần 1 của bài viết đã thể hiện được những nội dung cơ bản được đề ra. Chính sách thuế hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân được thể hiện trên các mặt sau đây:

Thứ nhất, Ngay từ khi các văn bản pháp luật thuế lần đầu tiên được ban hành vào những năm 1990, các quy định về thuế của Việt Nam đã được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Cùng một hoạt động kinh doanh, cùng một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đều được áp dụng thống nhất một mức thuế suất và cơ sở tính thuế, (kể cả thời gian áp dụng thuế doanh thu, thuế lợi tức và sau này chuyển thành thuế GTGT và thuế TNDN).

Trong giai đoạn đầu của công cuộc Đổi Mới, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) còn có sự thiên lệch về khu vực kinh tế quốc doanh, kéo theo các quy định về thuế XNK áp dụng cho khu vực KTTN chưa được thuận lợi so với khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, kể từ khi Luật Thương Mại (1997) và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) được ban hành, quyền kinh doanh XNK được áp dụng đối với các thành phần kinh tế đáp ứng đủ điều kiện quy định của pháp luật và được ghi vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Khu vực KTTN được quyền hoạt động XNK trực tiếp thay vì trước đây chỉ được ủy thác, và cũng từ đây được đối xử bình đẳng với các khu vực khác trong việc áp dụng các quy định về thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan, nghĩa vụ kê khai, nộp các loại thuế tại khâu XNK.

Thứ hai, Khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành,[10] các chính sách ưu đãi thuế được mở rộng áp dụng đối với khu vực KTTN và được quy định ngay trong luật. Theo đó, Nhà nước bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo pháp luật Việt Nam. Nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn đầu tư thành lập DN mới hoặc thực hiện các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích đầu tư; các dự án SXKD thực hiện tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH) khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn được ưu đãi thuế khá cao. Cụ thể là: Được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị (loại trong nước chưa sản xuất được) nhập khẩu làm tài sản cố định; Tùy thuộc vào địa bàn đầu tư hoặc lĩnh vực đầu tư mà dự án đáp ứng điều kiện, sẽ được miễn, giảm có thời hạn thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, được áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi (thấp hơn thuế suất phổ thông), đồng thời được miễn, giảm thuế TNDN trong một số năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế.

Kể từ khi Quốc hội ban hành Luật thuế TNDN năm 2003 và Luật đầu tư 2005, các quy định về thuế và ưu đãi thuế được áp dụng thống nhất giữa khu vực FDI và khu vực có vốn đầu tư trong nước, khu vực KTTN được tiếp tục áp dụng các ưu đãi thuế rất cao.[11] Đáng chú ý là mức thuế suất ưu đãi về thuế TNDN là 10%, 15% hoặc 20%, được miễn thuế TNDN tối đa đến 4 năm, giảm 50% thuế TNDN tối đa trong 9 năm tiếp theo  tùy thuộc vào địa bàn hoặc ngành nghề, lĩnh vực đầu tư mà nhà đầu tư đáp ứng được. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn đầu tư mua cổ phần của DNNN cổ phần hóa thì cũng được áp dụng ưu đãi thuế như DN thành lập mới có cùng lĩnh vực hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư.

 Thứ ba, Chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí được thiết kế, xây dựng và áp dụng trong thực tiễn ở mức hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp của người dân và DN.[12] Từ đó, góp phần thúc đẩy phát triển SXKD, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nhất là đầu tư áp dụng công nghệ cao, vào vùng có điều kiện KT-XH khó khăn và đặc biệt khó khăn; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết hợp lý của NSNN.

Theo quy định hiện hành, khu vực kinh tế nhà nước sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật, phần lợi nhuận sau thuế được tiếp tục động viên vào NSNN sau khi được dành một phần trích lập quỹ khuyến khích phát triển SXKD, lập quỹ khen thưởng và phúc lợi để chi cho người lao động. Ngược lại, đối với khu vực KTTN thì không phải bắt buộc thực hiện trích lập quỹ khen thưởng, phúc lợi; trường hợp thực tế nếu phát sinh khoản chi có tính chất phúc lợi cho người lao động thì DN được tính vào chi phí trước khi tính thuế, phần cổ tức nếu chưa chia cho cá nhân hoặc chia cho nhà đầu tư là doanh nghiệp thì không bị áp thuế. Đây chính là các điểm lợi thế hơn của khu vực KTTN so với khu vực DNNN. Chế độ lương, thưởng đối với các cán bộ lãnh đạo và quản lý của khu vực KTTN cũng được thực hiện theo thị trường, không bị giới hạn, bởi vậy họ có được những chuyên gia giỏi trong quản lý điều hành, gắn được trách nhiệm của người quản lý với hoạt động của DN nên hiệu quả kinh doanh luôn được nâng cao.  

Thứ tư, Trong quá trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế, phí và lệ phí được sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia; Khuyến khích thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn đối với sản phẩm, hàng hoá được sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế. Điều cần bàn đối với khu vực KTTN không chỉ dừng lại ở chính sách ưu đãi dành riêng cho họ mà mấu chốt là ở chỗ cần thiết lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, minh bạch. Nhà nước xây dựng pháp luật, thể chế và điều hành vĩ mô để các loại thị trường được vận hành một các đồng bộ, có liên kết, trên cơ sở đó khu vực KTTN được tham gia bình đẳng, đó là:

+ Khu vực KTTN được quyền thuê đất, được lựa chọn áp dụng chính sách giao/nhận quyền sử dụng đất có thu tiền để thực hiện các dự án đầu tư SXKD cũng như các dự án bất động sản. Chính sách đền bù, hỗ trợ được áp dụng như các khu vực kinh tế khác, trường hợp nhà đầu tư tư nhân có bỏ chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng để có đất sạch triển khai dự án thì số tiền đã bỏ ra được cấn trừ vào số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp NSNN.

+ Khu vực KTTN được quyền bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước, được khai thác các tài liệu địa chất liên quan đến thăm dò tài nguyên thiên nhiên, được quyền tham gia đấu giá, đấu thầu các dự án khai thác mỏ, các dự án khai thác dầu khí, thủy điện, phát triển du lịch, khai thác các quyền kinh doanh… Cho đến nay có thể nói khu vực KTTN đã tham gia hầu hết các lĩnh vực SXKD quan trọng của nền kinh tế. Thực tế đã có không ít nhà đầu tư tư nhân nhờ có chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế, nắm bắt được thời cơ, tận dụng được hết các chính sách của Nhà nước cùng với việc mạnh dạn đổi mới công nghệ, áp dụng các biện pháp quản trị minh bạch phát triển mạnh … nên đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế và trở thành những tập đoàn kinh tế có tầm cỡ.

+ Từ năm 2013 trở lại đây, cùng với việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa DNNN và thoái vốn nhà nước, Nhà nước thực hiện điều chỉnh giảm mức động viên thuế TNDN đối với khu vực KTTN trên cả 2 phương diện: giảm thuế suất và mở rộng diện chi phí được trừ khi tính thuế TNDN. Theo đó, mức thuế suất chung từ 25% được giảm xuống còn 22% vào năm 2014 và từ 2016 chỉ còn 20%, riêng DN có quy mô doanh thu năm từ 20 tỷ đồng trở xuống được sớm áp dụng mức thuế 20% ngay từ năm 2014. Các khoản chi phí về tiền lương, tiền công, chi phí quảng cáo, khuyến mại, giao dịch được thực hiện theo cơ chế thị trường, không bị giới hạn như trước; các khoản chi phí cho nghiên cứu, phát triển, áp dụng công nghệ mới, chi phí đào tạo nguồn nhân lực được khuyến khích và khấu trừ toàn bộ; DN được áp dụng chế độ khấu hao nhanh tối đa bằng 2 lần mức khấu hao theo đường thẳng nếu SXKD có lãi.

+ Chính sách ưu đãi thuế TNDN từ năm 2014 trở nên minh bạch hơn, thực tế hơn khi các ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi, địa bàn ưu đãi được thống nhất quy định trong Luật thuế TNDN. Dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng khi đáp ứng đủ điều kiện lĩnh vực hoặc địa bàn là được áp dụng thuế suất ưu đãi có thời hạn, được miễn, giảm thuế một số năm. Đáng chú ý là lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản là những lĩnh vực mà khu vực KTTN có nhiều khả năng tham gia, kể từ năm 2015 trở đi được áp dụng chính sách ưu đãi cao hơn.[13] Thu nhập của DN từ hoạt động này thực hiện tại địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn thì được miễn thuế, nếu dự án được thực hiện tại địa bàn khó khăn thì chỉ nộp thuế theo mức thuế suất đặc biệt ưu đãi là 10% và chỉ nộp 15% (thấp hơn mức thuế suất chung 20%) nếu dự án thực hiện tại địa bàn thuận lợi.

Thứ năm, Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế tạo nhiều thuận lợi cho DN được giảm bớt được nhiều thủ tục, giảm thời gian khai thuế từ gần 1.000 giờ đến cuối năm 2016 giảm xuống chỉ còn 110 giờ, trong đó khu vực KTTN được hưởng lợi nhiều nhất. Thông tư của Bộ Tài chính số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 được ghi nhận là sự kiện đặc biệt bởi sự đơn giản hóa và cắt giảm nhiều thủ tục tại 7 thông tư, bãi bỏ nhiều mẫu biểu kê khai, DN không phải gửi đến cơ quan thuế bảng kê hàng hóa mua vào, bán ra đi kèm tờ khai thuế GTGT; DN không phải nộp tờ khai hàng quý về tạm tính thuế TNDN; đại bộ phận DN thuộc khối KTTN được cắt giảm 2/3 số lần khai thuế trong năm (từ 12 lần xuống còn 4 lần). Quy định rõ ràng về chi phí cho mục đích kế toán (Thông tư 200/2014), phân định rõ chi phí được trừ cho mục đích tính thuế (Thông tư 96/2015) đã giúp cho DN được chủ động trong kinh doanh và nâng cao vai trò quản trị để vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh, vừa tuân thủ tốt pháp luật thuế.

Việc bãi bỏ quy định về đăng ký tài khoản của người bán trong việc DN kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào (tại Thông tư số 173/2016/TT-BTC ngày 28/10/2016); bỏ quy định đăng ký mẫu 06/GTGT đối với các DN mới thành lập sau 01 năm có nhu cầu tiếp tục nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (Thông tư số 93/2017/TT-BTC ngày 19/9/2017) được cộng đồng DN, đặc biệt là khu vực KTTN, các DN khởi nghiệp phấn khởi, đánh giá cao.

Thứ sáu, Triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,[14] Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định các chính sách cụ thể cần hỗ trợ, đồng thời phân công trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc thực thi các chính sách, giải pháp. Chắc chắn 100% số DN thuộc loại này thuộc khu vực KTTN. Trong khung khổ của pháp luật hiện hành, DN loại này được ưu đãi, tạo thuận lợi tối đa trong việc giảm nhẹ các thủ tục về đăng ký thuế, khai thuế thuế và thực hiện chế độ kế toán cùng với việc được trợ giúp miễn phí trong việc đào tạo, tư vấn, hỗ trợ về lệ phí môn bài trong giai đoạn khởi sự đến 3 năm. Để có thể hỗ trợ được nhiều hơn cho khu vực này, hiện tại Bộ Tài chính đang khẩn trương tiếp tục tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, triển khai chương trình nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, trên cơ sở đó có những đề xuất với Chính phủ và Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng pháp luật với những nội dung cụ thể và thiết thực.

Hiện tại, theo Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp vừa qua, Bộ Tài chính đang triển khai công tác chủ trì nghiên cứu, soạn thảo, tham vấn ý kiến rộng rãi của các cơ quan, ban ngành, cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời, làm việc với các cơ quan của Chính phủ, các Ủy ban của Quốc hội để các Dự án sửa đổi, bổ sung các luật thuế được trình Quốc hội thông qua vào các kỳ họp tới, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, trong đó có hỗ trợ và thúc đẩy phát triển khu vực KTTN.

Trân trọng cảm ơn quý vị đại biểu đã cho phép tôi được trình bày ý kiến tại cuộc Tọa đàm. Kính chúc quý vị Sức khỏe – Hạnh phúc – Thành công.                              

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ