'Ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập'

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã dành cho báo giới một cuộc phỏng vấn về công tác đối ngoại của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết trong các FTA và tại các cơ chế hợp tác kinh tế mà Việt Nam là thành viên.
ANH MINH
15, Tháng 02, 2021 | 07:00

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã dành cho báo giới một cuộc phỏng vấn về công tác đối ngoại của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết trong các FTA và tại các cơ chế hợp tác kinh tế mà Việt Nam là thành viên.

6

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn

PV: Xin Thứ trưởng đánh giá những nét nổi bật của liên kết kinh tế quốc tế trong năm 2020 và tác động đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam?

Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Nhìn lại năm 2020, một năm lịch sử, đầy biến động và “sóng gió”, có thể thấy rằng, kinh tế thế giới và liên kết kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp, nhiều rủi ro, đan xen giữa các mảng màu “sáng”, “tối”. Kinh tế thế giới suy thoái nặng nề, thương mại toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, hầu hết các trung tâm kinh tế tăng trưởng âm. Đại dịch Covid-19 mặc dù đặt ra nhiều thách thức mới nhưng cũng làm sâu sắc thêm những xu thế liên kết đã và đang diễn ra trong những năm trở lại đây, đồng thời đẩy nhanh một số xu thế, chiều hướng mới. Liên kết kinh tế quốc tế chịu ảnh hưởng mạnh từ điều chỉnh chính sách của các nước, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là xu thế chuyển đổi số.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song các nước vẫn đẩy mạnh nỗ lực hợp tác và liên kết kinh tế. Nổi bật là ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA), thúc đẩy thương lượng, ký kết hiệp định về những vấn đề mới như kinh tế số, thương mại điện tử…, xây dựng và thông qua những định hướng dài hạn như Tầm nhìn ASEAN sau năm 2025, Tầm nhìn của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đến năm 2040… Đây là những tiến triển tích cực, phản ánh nhu cầu gia tăng hợp tác, thúc đẩy các “sợi dây liên kết” nhằm bảo đảm sự bền vững của thị trường và các chuỗi cung ứng, ứng phó với các thách thức toàn cầu và phục hồi kinh tế.

Trong năm 2020, chúng ta chứng kiến sự hình thành FTA có quy mô lớn nhất thế giới - Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), nhiều FTA và thỏa thuận kinh tế song phương quy mô lớn như FTA Nhật Bản - Anh, Australia- Indonesia, EU - Việt Nam, Trung Quốc - Campuchia, Thỏa thuận kinh tế và thương mại Trung Quốc - Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại và hợp tác EU - Anh…. Đáng chú ý, theo đánh giá của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), dù năm 2020 hết sức khó khăn, số lượng các FTA được ký và thực thi đạt mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây.

Với các FTA “thế hệ mới”, quy mô lớn, các khuôn khổ hợp tác đầu tiên trên thế giới về kinh tế số cùng với mạng lưới khoảng 250 FTA và các cơ chế kết nối chính, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, điều mà các nhà đầu tư rất mong muốn.

Cũng ở thời điểm đó, kết cấu hạ tầng của nước ta rất lạc hậu, đường sá giao thông xuống cấp, thiếu điện, thiếu nước, thiếu dịch vụ viễn thông. Làm thế nào để sớm cải thiện được tình trạng đó là câu hỏi lớn được đặt ra tại Diễn đàn. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực tuy dồi dào, người Việt Nam cần cù, thông minh nhưng phần đông chưa được đào tạo cũng là một trở ngại đối với nhà đầu tư.

Ngoài yếu tố giữ vững an ninh ổn định chính trị, môi trường đầu tư mà cố Tổng Bí thư nói đến chính là những vấn đề bức bách đó. Thật đáng mừng, hiệu lệnh của Người đứng đầu Đảng CSVN cách đây 30 năm đã từng bước được triển khai, môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên thuận lợi, có sức cạnh tranh hơn và đó chính là cội nguồn của thành công trong thu hút FDI với con số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lũy tiến đến nay lên đến gần 390 tỷ USD, không chỉ bổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển đất nước mà còn góp phần giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tiến trình chủ động hội nhập quốc tế của nước ta.

Cùng với thu hút đầu tư nước ngoài, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh Việt Nam “khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển trên cơ sở xóa bỏ tư tưởng kỳ thị đối với kinh tế tư nhân, đối xử bình đẳng đối với các thành phần kinh tế”…

Ngày nay, cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân đã trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, vị trí, vai trò kinh tế tư nhân đã được khẳng định tại Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 3/6/2017, theo đó kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế.

Đất nước đang bước vào thập kỷ phát triển mới. Những thành tựu to lớn và bài học quý giá của 35 năm Đổi mới là hành trang quý giá để Việt Nam tự tin tiến bước gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và hướng tới một quốc gia phát triển vào năm 2045. Trong tiến trình đó, tư tưởng đổi mới của Đảng ta từ Đại hội VI năm 1986, cũng như những thông điệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gửi tới cộng đồng các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cách đây 30 năm chắc hẳn sẽ tiếp tục được vận dụng sáng tạo phù hợp với bối cảnh mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo động lực mới cho đất nước vững bước đi lên trong tay quyền phân phối, ban phát bằng mệnh lệnh lại càng khó khăn. Hơn thế nữa, kinh tế thị trường có những mặt trái của nó, mà nếu hệ thống luật pháp không kịp thời được hoàn thiện, thi hành luật pháp không nghiêm sẽ kéo theo nhiều hệ lụy gây tổn hại cả về vật chất và tinh thần đối với đất nước và nhân dân.

Lịch sử Đổi mới 30 năm qua đã chứng minh một cách sinh động điều đó. Không ít cán bộ lãnh đạo đã gục ngã vì xa rời tư tưởng “vì dân, do dân”, vì cám dỗ của vật chất. Trong từng giai đoạn nhất định, sự nuối tiếc, níu kéo quyền lực ban phát vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm đã làm chậm đi tiến trình Đổi mới. Đó đây vẫn tái hiện tư tưởng chủ quan, giáo điều, duy ‎ý chí trong quá trình ra quyết định, tạo nên lực cản đối với tiến trình dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội. Vậy nên, Đổi mới phải là một quá trình liên tục, lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” làm thước đo của sự thành công. Những biểu hiện, hành vi đi ngược với mục tiêu đó cần được giám sát chặt chẽ, lên án và loại trừ.

7

 

Tạo môi trường đầu tư thuận lợi

Việc lần đầu tiên một vị Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam dành thời gian tham dự Diễn đàn đầu tư đã là sự kiện lớn thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng các nhà đầu tư và giới truyền thông quốc tế. Điều càng gây ấn tượng hơn là Người đứng đầu Đảng CSVN đã phát đi một thông điệp mạnh mẽ về hội nhập: “Việt Nam chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế trong mọi lĩnh vực và dưới nhiều hình thức, phù hợp với những đặc điểm của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện đại” và để thực hiện được chủ trương đó, cố Tổng Bí thư chỉ đạo rất cụ thể về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Ông yêu cầu, “trên cơ sở nhận rõ những mặt yếu kém trong quản l‎ý điều hành 3 năm qua và tiếp thu ý‎ kiến trao đổi tại Diễn đàn, các cơ quan chức năng của Việt Nam có trách nhiệm chấn chỉnh hoạt động của mình nhằm sớm tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, làm cho các nhà đầu tư yên tâm tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh”.

Vào thời điểm Diễn đàn đầu tư được tổ chức, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới ban hành được 3 năm và dường như là cơ sở pháp lý‎ duy nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Nhiều luật khác liên quan đến đầu tư như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Cạnh tranh, Luật Chứng Khoán, Luật Môi trường… chưa được ban hành, môi trường pháp lý‎ chưa hoàn thiện. Để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, công việc bức bách là phải tạo môi trường pháp lý‎ thuận lợi minh bạch, phải đơn giản hóa thủ tục hành đan xen, châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực đi đầu, động lực chính thúc đẩy phục hồi, phát triển, đổi mới sáng tạo và liên kết kinh tế toàn cầu.

Thứ hai, nội hàm hợp tác và liên kết kinh tế được điều chỉnh sâu sắc, gắn với phát triển bền vững, bao trùm và quá trình số hóa. Đại dịch Covid-19 góp phần làm thay đổi phương thức vận hành kinh tế, thương mại quốc tế, thay đổi phương thức tương tác xã hội và đẩy nhanh xu hướng chuyển đổi số. Trong bối cảnh đó, nội hàm của liên kết kinh tế gắn hơn với phát triển tự cường, bền vững, an toàn; coi trọng xử lý tác động xã hội của công nghệ và toàn cầu hoá; chú trọng hơn các vấn đề an sinh xã hội, thiên tai, dịch bệnh, an ninh lương thực, sản phẩm thiết yếu, biến đổi khí hậu…

Thứ ba, xu hướng điều chỉnh các chuỗi cung ứng, dịch chuyển các hoạt động đầu tư, kinh doanh được đẩy mạnh hơn song không đơn giản và dễ dàng. Mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu vừa qua đã bộc lộ rủi ro của sự đứt gãy, gián đoạn khi xảy ra biến động. Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng được cân nhắc nhiều hơn nhằm tối ưu hoá sản xuất và chi phí, phân tán và giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng, quá trình chuyển dịch chuỗi cung ứng đòi hỏi thời gian để tìm kiếm những thị trường mới đáp ứng yêu cầu cao về hạ tầng cơ sở, thể chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, khả năng kết nối với các chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu…

Tình hình kinh tế thế giới và liên kết kinh tế quốc tế năm 2020 tác động nhiều chiều đến Việt Nam, nhất là khi nước ta bước vào giai đoạn hội nhập và liên kết sâu rộng. Tuy vậy, những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu vực đã và sẽ tiếp tục tác động phức tạp đến các nỗ lực thực hiện “mục tiêu kép”, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế giữa ta với một số đối tác. Xu hướng cạnh tranh thương mại, công nghệ gia tăng tác động đến môi trường thương mại, đầu tư quốc tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Sự vận hành còn hạn chế và bế tắc trong cải cách Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì môi trường thương mại tự do, mở, minh bạch và dựa trên luật lệ. Xu thế điều chỉnh nội hàm liên kết, xây dựng những khuôn khổ hợp tác, quy định mới đặt các quốc gia, nhất là những nền kinh tế đang nổi như Việt Nam, trước thách thức phải chủ động nắm bắt và thích ứng, tranh thủ cơ hội để phát huy vị thế, vai trò trong tiến trình này.

Nhìn lại năm 2020, có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những điểm sáng trong triển khai đối ngoại của đất nước. Thứ trưởng nhận định thế nào về điều này?

Ngay từ đầu năm, chúng ta đã tích cực vận động, phối hợp với Liên minh châu Âu (EU) hoàn thành phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU, đưa Hiệp định vào thực thi từ 01/8/2020. Kết quả thực thi FTA Việt Nam - EU trong gần 5 tháng qua đã bước đầu cho thấy lợi ích quan trọng, góp phần đưa kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta tiếp tục tăng trong năm nay, đạt mức hơn 540 tỷ USD, trong đó xuất siêu hơn 19 tỷ USD.

Ngay trong những ngày cuối năm 2020, chúng ta vừa ký Hiệp định FTA Việt Nam - Anh nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Anh, đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại Châu Âu, sau khi Anh chính thức rời EU từ ngày 31/12/2020.

Là Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các thành viên ASEAN và các đối tác thúc đẩy ký kết thành công Hiệp định RCEP tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 tại Hà Nội. Việc ký kết Hiệp định RCEP, với quy mô 30% GDP toàn cầu, có ý nghĩa rất lớn, khẳng định quyết tâm của các nước tiếp tục giữ đà hợp tác và liên kết, củng cố niềm tin và tạo động lực tích cực cho phục hồi kinh tế khu vực. Với thành công này, vai trò trung tâm của ASEAN, trong đó vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam, được đặc biệt đề cao.

Chúng ta cũng chủ động thúc đẩy nhiều sáng kiến quan trọng trong ASEAN về ứng phó với Covid-19, phục hồi chuỗi cung ứng khu vực, liên kết nội khối gắn với phát triển bền vững, đẩy mạnh các khuôn khổ hợp tác Mê Công…. Phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, chúng ta đã cùng chủ nhà APEC 2020 - Malaysia - triển khai thành công ý tưởng do Việt Nam khởi xướng từ năm APEC 2017 và đạt kết quả có ý nghĩa chiến lược là thông qua Tầm nhìn APEC đến năm 2040.

Với những bước tiến trong năm 2020 cùng với những kết quả quan trọng trong triển khai hội nhập kinh tế quốc tế nhiều năm qua, chúng ta đã cơ bản định hình mạng lưới gồm 17 FTA và các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại với các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới. Vị thế này đang và sẽ tạo ra những động lực vượt trội giúp chúng ta thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước vững bước tiến lên, hiện thực hóa những tầm nhìn và khát vọng phát triển trong giai đoạn chiến lược mới.

Đất nước chúng ta đang bước vào giai đoạn hội nhập và liên kết kinh tế sâu rộng, toàn diện. Xin Thứ trưởng chia sẻ về những định hướng hội nhập kinh tế của chúng ta trong giai đoạn mới và đóng góp của ngành ngoại giao?

Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 35 năm Đổi mới và 25 năm hội nhập quốc tế kể từ khi chúng ta tham gia ASEAN, với vị thế và uy tín quốc tế ngày càng được khẳng định, đất nước ta bước sang giai đoạn tham gia liên kết kinh tế quốc tế với một tâm thế hoàn toàn mới.

Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục chuyển biến sâu sắc, phức tạp; cơ hội và thách thức đan xen. Để tận dụng và phát huy hơn nữa những thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, nâng tầm sự tham gia, đóng góp và vai trò của Việt Nam, tôi cho rằng cần tập trung vào một số định hướng sau:

Một là, ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết trong các FTA và tại các cơ chế hợp tác kinh tế mà chúng ta là thành viên. Việc thực thi cam kết trong môi trường quốc tế biến động, cạnh tranh gay gắt đặt chúng ta trước nhiều vấn đề mới, phức tạp có thể phát sinh như tranh chấp thương mại, đầu tư, công nghệ, các vấn đề liên quan đến lao động, môi trường…, đòi hỏi chúng ta phải nắm chắc quy định quốc tế và trong nước, phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, từ trung ương, đến địa phương để xử lý phù hợp và hiệu quả.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện, mở rộng mạng lưới liên kết, hội nhập kinh tế song phương và đa phương với các đối tác và tổ chức trên thế giới, đưa Việt Nam trở thành tâm điểm của liên kết kinh tế tầm toàn cầu, phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Ba là, cần nỗ lực và chủ động tham gia quá trình định hình cấu trúc khu vực, xây dựng các khuôn khổ, quy định quản trị kinh tế ở tầm khu vực, liên khu vực và toàn cầu; đóng góp hiệu quả, trách nhiệm vào giải quyết những vấn đề chung, nhất là bảo đảm hệ thống thương mại đa phương tự do, mở và dựa trên luật lệ, cải cách WTO, thúc đẩy phát triển bền vững, bao trùm,…. Cần chủ động tham gia xây dựng các khuôn khổ, quy định quốc tế về quản trị kinh tế số và chuyển đổi số, trên cơ sở phù hợp với lợi ích của ta. Tiếp tục triển khai hiệu quả chủ trương “tham gia định hình các thể chế đa phương” và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.

Trong giai đoạn chiến lược mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển sẽ tiếp tục là một nhiệm vụ trọng yếu của ngành, trên tinh thần sắc bén và toàn diện trong nhận định và nắm bắt xu thế; chiến lược và tầm nhìn trong tham mưu chính sách; quyết liệt và tiên phong trong tổ chức triển khai. Bộ Ngoại giao và các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục nỗ lực, tận dụng và phát huy tiềm lực, vai trò và vị thế của đất nước để đóng góp thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách và mục tiêu phát triển từ nay đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII sắp tới đề ra.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ