TP.HCM tiếp tục là đầu tàu kinh tế của cả nước

Nhàđầutư
Theo ông Lê Thanh Liêm - Phó chủ tịch Thường trực UBND TP.HCM, một trong những kết quả nổi bật là tỷ trọng kinh tế thành phố trong kinh tế cả nước tiếp tục tăng, đến năm 2020 chiếm hơn 22% GDP cả nước, tiếp tục khẳng định là đầu tàu kinh tế của khu vực và cả nước.
CHU KÝ
09, Tháng 07, 2020 | 07:12

Nhàđầutư
Theo ông Lê Thanh Liêm - Phó chủ tịch Thường trực UBND TP.HCM, một trong những kết quả nổi bật là tỷ trọng kinh tế thành phố trong kinh tế cả nước tiếp tục tăng, đến năm 2020 chiếm hơn 22% GDP cả nước, tiếp tục khẳng định là đầu tàu kinh tế của khu vực và cả nước.

Tại Hội nghị lần thứ 42 Ban Chấp hành Đảng bộ TP.HCM khóa X diễn ra từ ngày 7 – 8/7/2020, nội dung được đại biểu quan tâm là Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm (2015 – 2020), phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp 5 năm (2020 – 2025).

Liên quan đến nội dung này, trình bày tại hội nghị, Phó chủ tịch Thường trực UBND TP.HCM Lê Thanh Liêm cho biết, kinh tế thành phố tăng trưởng khá và ổn định, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2016-2019 tăng bình quân 8,27%; năm 2020 do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề, tốc độ tăng trưởng còn khoảng 5%, kéo theo tốc độ bình quân cả giai đoạn 2016 - 2020 còn 7,6%/năm.

Theo ông Liêm, một trong những kết quả nổi bật là tỷ trọng kinh tế thành phố trong kinh tế cả nước tiếp tục tăng, đến năm 2020 chiếm hơn 22% GDP cả nước, tiếp tục khẳng định là đầu tàu kinh tế của khu vực và cả nước.

IMG_2424

TP.HCM tiếp tục khẳng định là đầu tàu kinh tế của khu vực và cả nước.

Trong 5 năm 2016 - 2020, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân chiếm khoảng 35% tổng sản phẩm trong nước (GRDP) của TP, vượt kế hoạch đề ra là 30% GRDP. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước từ khu vực kinh tế giai đoạn năm 2016 - 2020 đạt 8,91%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GRDP của thành phố.

Dù vậy, Phó chủ tịch UBND TP.HCM cũng thẳng thắn nhìn nhận, mục tiêu nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh của thành phố, chỉ số cạnh tranh địa phương thuộc nhóm 5 tỉnh, thành phố tốt nhất cả nước chưa đạt. TP.HCM cũng chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn.

Bên cạnh đó, việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm, không đạt yêu cầu; cơ chế liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa đạt hiệu quả cao. Công tác quy hoạch xây dựng chưa theo kịp với tốc độ phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Năng lực quản lý nhà nước về đất đai, quy hoạch, xây dựng một số quận, huyện còn hạn chế, dẫn đến hiệu quả quản lý chưa đáp ứng được tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Thông tin về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp  của TP.HCM  trong 5 năm (2020 - 2025), Phó chủ tịch Lê Thanh Liêm cho biết, thành phố đề ra 20 chỉ tiêu. Trong đó, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố (GRDP) bình quân hàng năm từ 8% - 8,5%; GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2025 đạt trên 8.500 USD/người; tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP hàng năm từ 40% trở lên; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt 7%/năm.

Để thực hiện các chỉ tiêu trên, theo ông Liêm, thành phố đã đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Một trong những giải pháp quan trọng là phát triển kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng năng suất lao động,  tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập.

TP.HCM cũng sẽ tập trung phát triển nhanh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; phát huy vai trò của Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông thành phố, là vùng động lực mới để phát triển kinh tế trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cùng với đó là triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số, cách mạng công nghiệp 4.0 và thực tiễn phát triển của thành phố.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ