TP.HCM: Phát triển nhà ở xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn của người dân

Nhàđầutư
Mới đây, Sở Xây dựng TP.HCM đã có văn bản gửi Bộ Xây dựng báo cáo tình hình sử dụng quỹ đất đô thị dành để phát triển nhà ở xã hội (NOXH). Qua đó, kết quả thực hiện chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn về NOXH trên địa bàn thành phố.
CHU KÝ
16, Tháng 10, 2019 | 11:55

Nhàđầutư
Mới đây, Sở Xây dựng TP.HCM đã có văn bản gửi Bộ Xây dựng báo cáo tình hình sử dụng quỹ đất đô thị dành để phát triển nhà ở xã hội (NOXH). Qua đó, kết quả thực hiện chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn về NOXH trên địa bàn thành phố.

Theo đó, Sở Xây dựng TP cho biết, trong giai đoạn 2016 đến tháng 6/2019, TP.HCM đã xây dựng hoàn thành, đưa vào sử dụng 14 dự án NOXH, với tổng diện tích đất 15,8ha, quy mô 10.255 căn hộ, 891.951,5m2 sàn xây dựng.

Trong 6 tháng cuối năm 2019, phấn đấu hoàn thành 6 dự án với quy mô 3.810 căn hộ, 442.259,42m2 sàn xây dựng. Trong năm 2020, phấn đấu hoàn thành 3 dự án với tổng diện tích đất 1,896ha, quy mô 3.879 căn hộ, 281.371,04m2 sàn xây dựng. Lũy kế giai đoạn 2016 - 2020 hoàn thành 17.944 căn hộ.

Bên cạnh đó, báo cáo về kết quả thực hiện và hiệu quả của việc dành quỹ đất hoặc quỹ nhà để phát triển NOXH trên địa bàn TP, Sở Xây dựng TP.HCM cho biết: các dự án nhà ở thương mại quy mô sử dụng đất trên 10ha, dù đã xác định quỹ đất 20% xây dựng NOXH, nhưng một số chủ đầu tư chậm triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng hoặc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật nên chưa triển khai đầu tư xây NOXH.

20190927_151515

Một dự án Nhà ở xã hội trên địa bàn TP.HCM (địa chỉ tại số 35 đường Hồ Học Lãm, phường An Lạc, quận Bình Tân) của Quỹ Phát triển nhà ở TP.HCM hợp tác với CTCP Tư vấn Thương mại Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân thi công chậm tiến độ vừa bị UBND TP xử phạt số tiền 275 triệu đồng và yêu cầu khẩn trương cân đối, bố trí đủ nguồn vốn của doanh nghiệp để thực hiện, sớm hoàn thành dự án.

Riêng các dự án có quy mô sử dụng dưới 10ha, hầu hết chủ đầu tư các dự án nhà ở thương mại thực hiện nghĩa vụ NOXH theo hình thức nộp bằng tiền (20% tiền sử dụng đất), số tiền này được chủ đầu tư nộp để thực hiện nghĩa vụ NOXH vào Quỹ Phát triển nhà ở TP để đầu tư phát triển NOXH trên địa bàn TP.HCM.

Cũng theo Sở Xây dựng TP, một khó khăn nữa đến từ nguồn vốn thực hiện, nguồn vốn dài hạn để hỗ trợ các chủ đầu tư vay thực hiện dự án, các đối tượng được hưởng chính sách vay mua nhà chưa ổn định. Chưa kể, nguồn vốn để cấp bù lãi suất cho các tổ chức tín dụng chưa được bố trí.

Từ những vấn đề trên, Sở Xây dựng TP.HCM nhận định, kết quả thực hiện chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn về NOXH trên địa bàn TP.

Qua đó, để việc phát triển NOXH đáp ứng nhu cầu của người dân, Sở Xây dựng TP kiến nghị ưu tiên sử dụng các quỹ đất nhà nước trực tiếp quản lý do các doanh nghiệp đang sử dụng làm nhà xưởng sản xuất tại các quận, huyện thuộc diện phải di dời vào các khu công nghiệp.

Quỹ đất do các cơ quan nhà nước hiện đang quản lý thuộc diện sắp xếp lại để đầu tư xây dựng NOXH thuộc sở hữu nhà nước, đảm bảo đúng quy định của Nghị định 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định việc sắp xếp, xử lý tài sản công.

Về nguồn vốn đầu tư xây dựng, Sở Xây dựng đề xuất phân bổ nguồn vốn ngân sách thu được từ chủ đầu tư của các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị mới thực hiện nghĩa vụ NOXH theo hình thức nộp bằng tiền (20% tiền sử dụng đất), để đầu tư xây dựng các dự án NOXH sử dụng vốn ngân sách.

Bổ sung cho Quỹ phát triển nhà ở TP để đầu tư phát triển NOXH trên địa bàn TP.HCM và giải quyết cho các hộ gia đình chính sách vay mua NOXH.

Bên cạnh đó, xem xét cân đối, bố trí nguồn vốn từ ngân sách để Ngân hàng Nhà nước có căn cứ triển khai việc cấp bù lãi suất nhằm thực hiện sớm chính sách NOXH, tạo thêm nguồn vốn thực hiện chương trình NOXH và đảm bảo công bằng cho các đối tượng thụ hưởng.

Ngoài ra, tổ chức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện các dự án NOXH sử dụng quỹ đất công, cải cách hành chính các thủ tục đầu tư NOXH.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ