TP.HCM đặt mục tiêu năm 2045 trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính của châu Á

Nhàđầutư
TP.HCM đề ra chỉ tiêu đến năm 2045 trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính của châu Á, phát triển bền vững, có chất lượng cuộc sống cao, GRDP bình quân đầu người khoảng 40.000 USD, là điểm đến hấp dẫn toàn cầu.
NHÂN TÂM - LÝ TUẤN
15, Tháng 10, 2020 | 09:42

Nhàđầutư
TP.HCM đề ra chỉ tiêu đến năm 2045 trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính của châu Á, phát triển bền vững, có chất lượng cuộc sống cao, GRDP bình quân đầu người khoảng 40.000 USD, là điểm đến hấp dẫn toàn cầu.

z2126632695378_cc59171e193d1bb24780480628e48484

Ông Nguyễn Thành Phong – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố. Ảnh: Long Hồ/Website Thành ủy TP.HCM.

Trình bày báo cáo tóm tắt dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ khóa X, ông Nguyễn Thành Phong – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố cho biết, kinh tế TP.HCM trong giai đoạn 2016 – 2019 tăng bình quân 7,72%, ước giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 6,41%, tỷ trọng kinh tế thành phố đóng góp trên 22,2% kinh tế cả nước.

Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP tăng liên tục qua các năm; năng suất lao động bình quân của thành phố cao hơn 2,6 lần so với bình quân cả nước; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được nâng lên. GRDP bình quân đầu người tăng liên tục qua các năm, bình quân gấp 2,4 lần so với cả nước. Thu ngân sách thành phố luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất cả nước (năm 2019 khoảng 27%). 

Các ngành dịch vụ phát huy hiệu quả vai trò là ngành mũi nhọn, phát triển đúng định hướng, đạt kết quả cao cả về quy mô và năng suất, tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2016 - 2019 đạt 7,84%, ước giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,59%/năm, giá trị gia tăng dịch vụ chiếm tỷ trọng bình quân 33% toàn ngành, đứng đầu cả nước.

Ngành thương mại phát triển theo hướng hiện đại, nhất là thương mại điện tử. Hệ thống phân phối hiện đại đã phát triển về số lượng và chất lượng, gia tăng lưu thông hàng hóa và thúc đẩy sản xuất. Ngành du lịch thành phố tiếp tục dẫn đầu cả nước; các ngành giáo dục, y tế, tài chính - ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh, giữ vững vị trí là một trung tâm lớn của cả nước.

Ngành công nghiệp tăng trưởng khá, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 7,70%/năm, ước giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,51%/năm, 04 ngành công nghiệp trọng yếu ước tăng 9%/năm, cao hơn mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp, chiếm tỷ trọng 10,2% GRDP. Khu Công nghệ cao thành phố đã phát triển mạnh mẽ, tổng giá trị xuất khẩu 4 năm đạt 46,36 tỷ USD, ước năm 2020 là 17,24 tỷ USD. 

Ngành nông nghiệp phát triển theo định hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, tập trung vào các ngành nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học và năng suất lao động gấp 3 lần cả nước.

Các thị trường được mở rộng quy mô, đổi mới phương thức giao dịch, hoạt động ngày càng hiệu quả, nhất là thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường vốn, giữ vững vai trò là trung tâm tài chính, tiền tệ của cả nước. Đã tiến hành xây dựng Đề án phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính khu vực và quốc tế.

Công tác quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đã có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập của thành phố. Các thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển, tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thành phố có xu hướng giảm; doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài phát triển mạnh mẽ; các hợp tác xã hoạt động chất lượng ngày càng cải thiện. Thành phố đẩy mạnh hoạt động hợp tác, thực hiện có hiệu quả liên kết phát triển về giao thông, du lịch, bảo vệ môi trường và xây dựng chuỗi công viên phần mềm Quang Trung với các tỉnh, thành.

Ông Phong cũng cho biết, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020 chưa đạt kế hoạch đề ra, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mức tăng trưởng kinh tế cả nhiệm kỳ chưa đạt chỉ tiêu (8,0 - 8,5%/năm). Mục tiêu nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh của thành phố, chỉ số cạnh tranh địa phương thuộc nhóm 5 tỉnh, thành phố tốt nhất cả nước chưa đạt.

Cùng với đó, thành phố chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước có quy mô lớn. Ngoài ra, việc liên kết doanh nghiệp, khoa học, đào tạo và Nhà nước hiệu quả chưa cao.

Chưa chú trọng đúng mức việc phát triển hạ tầng công nghiệp, hạ tầng dịch vụ và giao thông. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm, không đạt yêu cầu. Cơ chế liên kết, hợp tác với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa đạt hiệu quả cao. GRDP bình quân đầu người của thành phố năm 2020 ước đạt 6.328 USD, không đạt kế hoạch đề ra.

Đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, ông Phong cho biết, TP.HCM đến năm 2025 là đô thị thông minh, thành phố dịch vụ, công nghiệp theo hướng hiện đại, giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. GRDP bình quân đầu người khoảng 8.500 - 9.000 USD.

Đến năm 2030 là thành phố dịch vụ, công nghiệp hiện đại, thành phố văn hóa, đầu tàu về kinh tế số, xã hội số, GRDP bình quân đầu người khoảng 13.000 - 14.000 USD, là trung tâm về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ và văn hóa của khu vực Đông Nam Á.

Tầm nhìn đến năm 2045, TP.HCM đặt mục tiêu trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính của châu Á, phát triển bền vững, có chất lượng cuộc sống cao, GRDP bình quân đầu người khoảng 40.000 USD, là điểm đến hấp dẫn toàn cầu.

Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, TP.HCM đề ra một số chỉ tiêu như: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn thành phố (GRDP) bình quân hàng năm từ 8 - 8,5%, duy trì tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP trên 60%; Phấn đấu kinh tế số đóng góp khoảng 25% đến năm 2025, 40% đến năm 2030 trong GRDP của thành phố; GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2025 đạt từ 8.500 - 9.000 USD/người;…

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ