Thứ trưởng Bộ KH&ĐT: 'Quy hoạch và phát triển KCN, KKT chưa sát với nhu cầu phát triển và thu hút đầu tư'

Nhàđầutư
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Duy Đông cho rằng, quy hoạch phát triển KCN, KKT chưa thể hiện rõ được tầm nhìn chiến lược, tổng thể; tại một số nơi quy hoạch và phát triển KCN, KKT chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút đầu tư, chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, xã hội và môi trường.
LÝ TUẤN
20, Tháng 11, 2020 | 15:26

Nhàđầutư
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Duy Đông cho rằng, quy hoạch phát triển KCN, KKT chưa thể hiện rõ được tầm nhìn chiến lược, tổng thể; tại một số nơi quy hoạch và phát triển KCN, KKT chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút đầu tư, chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, xã hội và môi trường.

IMG_7260 (2)

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông phát biểu tại hội thảo sáng nay 20/11.

Sáng 20/11, phát biểu tại Hội thảo lấy ý kiến về báo cáo tổng kết 30 năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế (KCN, KKT), Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Trần Duy Đông cho biết, sau gần 30 năm kể từ khi Khu chế xuất (KCX) Tân Thuận là KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập, Việt Nam đã đạt được kết quả quan trọng trong phát triển KCN, KKT.

Đến nay, trên địa bàn cả nước đã có 369 KCN được thành lập (gồm cả các KCN nằm trong KKT) tại 61/63 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích gần 114.000 ha; 26 KKT cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh, thành phố với diện tích khoảng 766 nghìn ha và 18 KKT ven biển được thành lập tại 17 tỉnh, thành phố với tổng diện tích mặt đất và mặt nước gần 853.000 ha.

Theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, các KCN, KKT đã có những đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam, thông qua việc thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; bổ sung nguồn vốn quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội (vốn đầu tư thực hiện, gồm vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN, khu chức năng trong KKT và vốn đầu tư của dự án trong KCN, KKT đạt khoảng 27,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016-2019).

Đồng thời, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần mở rộng thị trường quốc tế, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu (trong giai đoạn 2016-2019, giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm chiếm khoảng trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước); đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách (trong giai đoạn 2016-2019, nộp ngân sách nhà nước trên 400.000 tỷ đồng.

Đáng chú ý, tại một số địa phương, tỷ lệ thu ngân sách nhà nước trên địa bàn KCN, KKT chiếm khoảng trên 60% tổng thu ngân sách của địa phương, như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hải Phòng…; tạo việc làm cho hơn 3,8 triệu lao động trực tiếp, chiếm khoảng 7% lực lượng lao động của cả nước.

“Bên cạnh những đóng góp trực tiếp, việc hình thành các KCN, KKT đã có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, trong đó có việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu; phát triển đô thị; thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng; bảo vệ môi trường sinh thái; mở rộng quan hệ đối ngoại… Việc phát triển mô hình KCN, KKT đã góp phần tích cực trong việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích đổi mới thủ tục hành chính”, Thứ trưởng KH&ĐT nhận định.

Mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, Thứ trưởng KH&ĐT cũng thừa nhận, việc phát triển KCN, KKT thời gian vừa qua cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định. 

Cụ thể, là quy hoạch phát triển KCN, KKT chưa thể hiện rõ được tầm nhìn chiến lược, tổng thể; tại một số nơi quy hoạch và phát triển KCN, KKT chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút đầu tư, chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, xã hội và môi trường.

Bên cạnh đó, việc tập trung các KCN tại một số địa phương, tuyến quốc lộ gây áp lực lớn về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực xung quanh KCN; mô hình phát triển KCN, KKT còn chậm đổi mới; chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư và hiệu quả sử dụng đất tại KCN, KKT còn chưa cao; KCN, KKT phát triển chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội; hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong và ngoài KCN, KKT còn thấp so với nhu cầu.

“Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và mạnh mẽ để trở thành một đất nước phát triển và hiện đại, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tránh tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách và điều chỉnh mục tiêu, định hướng phát triển KCN, KKT để thích ứng với bối cảnh mới, góp phần thực hiện chiến lược phát triển đất nước”, Thứ trưởng Trần Duy Đông nói.

Tại hội thảo này, Thứ trưởng KH&ĐT cũng mong muốn được lắng nghe ý kiến tập trung vào một số nội dung chính.

Một là, đánh giá các kết quả đã đạt được, tồn tại hạn chế và những bài học kinh nghiệm trong phát triển KCN, KKT tại địa phương.

Hai là, đánh giá những tồn tại, hạn chế về phát triển KCN, KKT trong thời gian vừa qua và các nguyên nhân cơ bản, gồm các vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà nước về KCN, KKT (hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, khung pháp lý cho sự phát triển KCN, KKT; mô hình tổ chức bộ máy cơ quan đầu mối quản lý nhà nước đối với KCN, KKT; sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương; mô hình phát triển KCN, KKT…) và tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư của các KCN, KKT của Việt Nam so với các nước khác (chính sách ưu đãi đầu tư, lao động, thủ tục…).

Ba là, kiến nghị những giải pháp thiết thực và đột phá nhằm xây dựng, phát triển KCN, KKT trong thời gian tới.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ