Thấy gì ở lãi suất trái phiếu vượt 14%/năm của doanh nghiệp địa ốc?

Từ đầu năm đến nay, lãi suất trái phiếu đã tăng từ 9,5%/năm lên cao nhất 14,45%/năm, tùy kỳ hạn. Một số ý kiến lo ngại một cuộc chạy đua lãi suất phát hành sẽ xảy ra khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp phát hành ở mức cao.
KHỔNG CHIÊM
19, Tháng 08, 2019 | 07:18

Từ đầu năm đến nay, lãi suất trái phiếu đã tăng từ 9,5%/năm lên cao nhất 14,45%/năm, tùy kỳ hạn. Một số ý kiến lo ngại một cuộc chạy đua lãi suất phát hành sẽ xảy ra khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp phát hành ở mức cao.

photo1566029195910-1566029196085-crop-15660292224621789421591

 

Cuộc đua lãi suất trái phiếu

Cuối tháng 2, CTCP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP HCM (HoSE: CII) là doanh nghiệp đầu tiên công bố phát hành trái phiếu doanh nghiệp, có tài sản đảm bảo với giá trị 370 tỷ đồng. Lãi suất phát hành 9,5%/năm, kỳ hạn 3 năm, trái chủ là các nhà đầu tư tổ chức.

Sang tháng 3, lãi suất không có nhiều thay đổi. Mức trên được giữ nguyên với 200 tỷ đồng trái phiếu do Văn Phú Invest (HoSE: VPI) phát hành, kỳ hạn 2 năm và 10,8% cho 200 tỷ đồng trái phiếu của Novaland (HoSE: NVL), kỳ hạn 1 năm.

Tháng 4 - 5, mặt bằng lãi suất bắt đầu thiết lập giá trị mới, khoảng từ 10,5% đến 12% mỗi năm, áp dụng cho kỳ hạn  phổ biến từ 2 đến 3 năm. Một số doanh nghiệp phát hành trong giai đoạn này như Novaland (400 tỷ đồng), Văn Phú Invest (800 tỷ đồng), Hà Đô (250 tỷ đồng).

Cá biệt, Phát Đạt (HoSE: PDR) phát hành 200 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất cao nhất 14,45%/năm cho Dragon Capital và 3 tổ chức trong nước. Kỳ hạn trái phiếu trong một năm, có tài sản đảm bảo bằng 18 triệu cổ phiếu PDR.

Tháng 6, doanh nghiệp này tiếp tục phát hành 150 tỷ đồng trái phiếu lãi suất 14%/năm cho trái chủ là Công ty Chứng khoán Hải Phòng và hai cá nhân. Cùng thời điểm, Novaland cũng phát hành 1.300 tỷ đồng trái phiếu cho PVcomBank kỳ hạn 4 năm, lãi suất 11,75%/năm và Hà Đô phát hành 400 tỷ đồng trong 15 tháng, lãi suất 10%/năm.

Khảo sát cho thấy, mặt bằng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp phổ biến khoảng 9 - 12%/năm cho kỳ hạn 2 - 3 năm. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, lãi suất cũng đã tăng từ 9,5%/năm lên cao nhất 14,45%/năm tùy kỳ hạn.

Tại phiên họp báo thường kỳ của Chính phủ, Thứ trưởng Tài chính Vũ Thị Mai nhận định mặt bằng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp năm nay cao hơn năm trước, trong đó doanh nghiệp địa ốc phổ biến ở mức 10 - 12%/năm. Trường hợp lãi suất 14 - 14,45% như của Phát Đạt là cá biệt. Nguyên nhân được Thứ trưởng chỉ ra là mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của ngân hàng thương mại đều tăng.

Nhiều ý kiến lo ngại một cuộc chạy đua lãi suất phát hành sẽ xảy ra, khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp phát hành ở mức cao. TS. Bùi Quang Tín, chuyên gia kinh tế cho rằng điều này khó có thể lặp lại như thời điểm 2006 - 2007. Bởi lẽ, doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu cũng đã phải cân đối giữ chi phí trả cho người mua và tỷ suất sinh lời huy động được. Mặt bằng lãi suất 14 - 15%/năm hiện nay với doanh nghiệp địa ốc là cao, vì như vậy doanh nghiệp phải đạt được tỷ suất sinh lời trên 20% - tỷ lệ không dễ trong thời kỳ tăng trưởng chậm. Theo ông Tín, hiện nay lãi suất đã ở mức trần.

Trước đó, ông Nguyễn Văn Đạt, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Phát Đạt trong một lần gặp gỡ giới phân tích hồi tháng 3 có cho rằng lãi suất 14 - 15%/năm không phải quá cao, nếu nhìn từ hiệu quả đầu tư. Phát Đạt có những dự án cần dòng tiền nhanh, số tiền huy động cho dự án có thể đem lại lợi nhuận cao hơn thế. Như vậy việc phát hành trái phiếu giúp dòng tiền của công ty quay nhanh, không phức tạp như vay ngân hàng, hiệu quả đầu tư cao hơn. Theo tính toán, Phát Đạt công bố phát hành đợt trái phiếu lãi suất trên từ 15/3 và báo cáo kết quả ngày 11/4, tức gần một tháng.

photo1566029195910-1566029196085-crop-15660292224621789421591

Doanh nghiệp địa ốc đua phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển nhìn nhận không phải bây giờ, các doanh nghiệp địa ốc mới phát hành trái phiếu mà thực hiện từ những năm 2008 - 2009. Tuy nhiên hiện nay, nguồn vốn trung dài hạn của các doanh nghiệp vẫn phụ thuộc trên 90% nguồn vốn từ ngân hàng. Nhưng các ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản nên các doanh nghiệp cần tìm cách gọi vốn qua các kênh khác và trái phiếu là kênh thay thế tối ưu. Ngoài ra, ông Hiển nhấn mạnh một số doanh nghiệp bất động sản đang thực sự khó khăn, không thể vay ngân hàng.

Với việc lãi suất trái phiếu có thể lên đến 14,45%/năm, ông Hiển nhận định hoàn toàn bình thường ngay cả khi so với lãi suất ngân hàng. Bởi nếu thấp hơn thì doanh nghiệp đã làm từ rất lâu. Hơn nữa, với trái phiếu, doanh nghiệp không bị giám sát về giải ngân, sử dụng vốn uyển chuyển hơn. Đặc biệt, ông cho rằng dù lãi suất có cao hơn lãi vay ngân hàng nhưng doanh nghiệp không phải dùng tài sản thế chấp, nên đánh đổi lãi suất như vậy không có gì bất thường.

Không quá lo ngại về lãi suất trái phiếu doanh nghiệp bất động sản ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất chung là quan điểm của ông Bùi Quang Tín. Ông nhận định trái phiếu doanh nghiệp là một trong những yếu tố tác động trực tiếp lên mặt bằng lãi suất thị trường, vì nó là kênh huy động vốn tác động trực tiếp đến nguồn huy động vốn của ngân hàng. Tuy nhiên tác động này không quá lo ngại, bởi theo ông, kênh tiền gửi vào ngân hàng cũng đang có lãi suất tốt, chừng 9% cho khoản tiền gửi trên 12 tháng mà lại an toàn cho người gửi. Ngược lại, người mua trái phiếu doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, đánh giá về doanh nghiệp trước khi mua để tránh các rủi ro; hơn nữa thị trường trái phiếu thứ cấp chưa phát triển nên khả năng chuyển trái phiếu sang tiền mặt khi có việc khẩn cấp là điều khó khăn.

Nhìn nhận thị trường, Thứ trưởng Vũ Thị Mai cũng cho rằng lãi suất và mức độ huy động với xu hướng biến động như vậy chưa đáng ngại. Tuy nhiên, Bộ vẫn phải theo dõi, nắm bắt tình hình, đánh giá thường xuyên và có biện pháp phù hợp nếu thị trường trái phiếu bị ảnh hưởng.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai dẫn số liệu tổng phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các công ty đại chúng trong 7 tháng là 31.000 tỷ đồng, bằng 64% giá trị cả năm 2018. Trong đó, các doanh nghiệp bất động sản chiếm 22% giá trị phát hành, tương đương 6.820 tỷ đồng.

(Theo Người đồng hành)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24620.00 24635.00 24955.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30653.00 30838.00 31788.00
HKD 3106.00 3118.00 3219.00
CHF 26966.00 27074.00 27917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15849.00 15913.00 16399.00
SGD 18033.00 18105.00 18641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17979.00 18051.00 18585.00
NZD   14568.00 15057.00
KRW   17.62 19.22
DKK   3520.00 3650.00
SEK   2273.00 2361.00
NOK   2239.00 2327.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ