Tại sao các nhà đầu tư Mỹ không còn tâm lý chờ đợi việc cắt giảm lãi suất nữa?

Nhàđầutư
Tuần này Phố Wall đã phải vật lộn để chấp nhận thực tế lạnh lùng rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể sẽ không sớm cắt giảm lãi suất. Nhưng lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn không phải là hồi chuông báo tử cho chứng khoán, theo CNN.
HOÀNG AN
16, Tháng 02, 2024 | 07:12

Nhàđầutư
Tuần này Phố Wall đã phải vật lộn để chấp nhận thực tế lạnh lùng rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể sẽ không sớm cắt giảm lãi suất. Nhưng lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn không phải là hồi chuông báo tử cho chứng khoán, theo CNN.

Dữ liệu lạm phát ở Mỹ được công bố hôm thứ Ba đã chứng tỏ là một viên thuốc khó nuốt đối với các nhà giao dịch. Cả cổ phiếu và trái phiếu đều bị bán tháo khi các nhà đầu tư điều chỉnh lại kỳ vọng của họ về 5 đến 6 lần cắt giảm lãi suất trong năm nay để phù hợp hơn so với với 3 lần cắt giảm lãi suất dự kiến của Fed.

NY Stock gettyimages

Các nhà giao dịch trên sàn chứng khoán New York hôm 31/1/2024. Ảnh Michael Nagle/Xinhua/Getty Images

Theo CME FedWatch Tool, các nhà giao dịch phần lớn kỳ vọng Fed sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 6 hoặc tháng 7, thay vì ngay tại cuộc họp chính sách tháng 5.

Giữ lãi suất ở mức cao đủ lâu để giảm lạm phát mà không gây ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt là một hành động cân bằng tinh tế cần thiết đối với Fed. Chủ tịch Jerome Powell cho biết vào tháng 1 rằng mặc dù dữ liệu lạm phát rất đáng khích lệ nhưng ngân hàng trung ương muốn thấy nhiều dấu hiệu hạ nhiệt giá trước khi chuyển sang tỷ giá ngang bằng.

Tuy nhiên, nếu lạm phát tiếp tục giảm, mức lãi suất hiện tại có thể bị hạn chế quá mức và kéo nền kinh tế đi xuống. Đồng thời, nếu các quan chức cắt giảm lãi suất quá sớm, họ có thể vô tình tạo ra thêm lạm phát.

Trong khi Phố Wall chao đảo hôm thứ Ba trước khả năng trì hoãn cắt giảm lãi suất, một số nhà đầu tư cho rằng biến động là điều đương nhiên và việc trì hoãn nới lỏng chính sách tiền tệ không phải là nguyên nhân gây lo ngại.

Ví dụ, Yardeni Research đã bác bỏ ý kiến cho rằng việc cắt giảm lãi suất ngay lập tức là cần thiết để tránh việc Fed lạm dụng quá mức trong việc làm chậm lại nền kinh tế. Các nhà nghiên cứu lập luận rằng chính các chu kỳ thắt chặt của Fed đã gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính, sau đó chuyển thành khủng hoảng tín dụng, rồi dẫn tới suy thoái kinh tế.

Nói một cách đơn giản, kể từ khi Fed vào cuộc vào năm ngoái để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính tiềm ẩn, với sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon và Ngân hàng Signature gây ra tình trạng hỗn loạn ngân hàng khu vực, mức độ thắt chặt hiện tại của Fed giúp họ có thể tuyên bố rằng không có khả năng gây ra suy thoái kinh tế và làm rung chuyển Phố Wall.

"Quan điểm của chúng tôi là với lạm phát vẫn đang có xu hướng vừa phải và tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn mạnh mẽ, vậy vội vàng giảm lãi suất để làm gì? Tại sao lại gây phức tạp với những thành công đã đạt được"? Ed Yardeni, Chủ tịch của Yardeni Research, nói trong một cuộc họp ngắn hôm thứ Ba.

Theo Bank of America (BofA, cổ phiếu sẽ không giảm ngay cả khi việc cắt giảm lãi suất hoàn toàn không còn nữa vào năm 2024, bất chấp những hoảng loạn đã diễn ra hôm thứ Ba.

Các chiến lược gia của ngân hàng chỉ ra rằng khoảng 1/3 vốn hóa thị trường của S&P 500 là các công ty có sẵn tiền mặt. Họ cho biết, miễn là Fed không tăng lãi suất lần nữa (không có dấu hiệu chính thức nào cho thấy Ngân hàng Trung ương Mỹ hiện đang xem xét một động thái như vậy), chứng khoán vẫn có thể chứng kiến một hiệu suất mạnh mẽ trong năm nay.

Các chiến lược gia của BofA viết trong một ghi chú vào ngày 9 tháng 2: "Không có việc cắt giảm nào có thể cản trở sự phục hồi toàn diện ở các lĩnh vực nhạy cảm hơn là tín dụng. Nhưng cần nhớ rằng các nhà đầu tư  kỳ vọng vào sự trở lại mạnh mẽ của thị trường trong năm nay không phải bởi những gì Fed dự kiến sẽ làm trong năm nay, mà là vì những gì Fed đã đạt được từ tháng 3 năm 2022 đến nay".

Ngân hàng Trung ương Mỹ đã đạt được bước tiến đáng chú ý trong việc giảm lạm phát bằng việc tăng lãi suất mạnh mẽ gần hai năm trước. Giá tiêu dùng tăng 3,1% trong 12 tháng kết thúc vào tháng 1 này.

Mặc dù con số này cao hơn kỳ vọng của các nhà kinh tế do FactSet thăm dò về mức tăng 2,9%, nhưng nó vẫn có bước nhảy vọt dưới mức tăng 9,1% hàng năm mà lạm phát đạt đỉnh vào tháng 6 năm 2022.

Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là các nhà đầu tư sẽ không thấy nhiều nỗi đau phía trước.

Hai trong số những lĩnh vực nhạy cảm nhiều nhất về tín dụng là ngân hàng và bất động sản thương mại đang gặp khó khăn. Một số nhà đầu tư lo lắng rằng những người cho vay đang gặp khó khăn sau khi báo cáo kết quả kinh doanh hàng quý mờ nhạt và bất động sản thương mại có thể là mặt hàng tiếp theo phải giảm giá khi các tòa nhà văn phòng vẫn bị bỏ trống.

Vào tháng 1, Fed cho biết họ sẽ ngừng Chương trình cấp vốn có kỳ hạn ngân hàng, được bắt đầu sau cuộc khủng hoảng ngân hàng khu vực vào năm ngoái để giúp những người cho vay đáp ứng nhu cầu thanh khoản của họ. Điều đó có nghĩa là những người cho vay sẽ không còn chỗ dựa đó nữa nếu họ gặp rắc rối sau khi chương trình hết hạn vào ngày 11 tháng 3.

Các nhà kinh tế và nhà đầu tư cũng cảnh báo rằng việc đưa lạm phát từ 3% xuống mục tiêu 2% khó nắm bắt của Fed có thể sẽ là chặng đường khó khăn nhất trong chiến dịch bình ổn giá cả của cơ quan này. Đó là bởi vì các thành phần gây lạm phát nhiều nhất, dịch vụ và hàng hóa, vốn có khả năng chống lại sự thay đổi của điều kiện thị trường cao nhất, giờ đây bắt buộc phải giảm xuống.

"Con đường hướng tới lạm phát 2% sẽ không phải là một đường thẳng. Do đó, điều duy nhất chúng ta có thể tin tưởng là sự biến động trong suốt chặng đường", Marc Dizard, chiến lược gia đầu tư trưởng tại PNC Asset Management Group, viết trong một ghi chú hôm thứ Ba.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ