Nông nghiệp xuất siêu hơn 6 tỷ USD

Bộ NN&PTNT thông tin sau 8 tháng đầu năm 2020, ngành nông nghiệp xuất siêu khoảng 6,2 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2019.
ĐỖ HƯƠNG
04, Tháng 09, 2020 | 18:49

Bộ NN&PTNT thông tin sau 8 tháng đầu năm 2020, ngành nông nghiệp xuất siêu khoảng 6,2 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2019.

Theo đó, tháng 8, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 3,6 tỷ USD, tăng 3,5% so với tháng 7/2020. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt khoảng 1,6 tỷ USD (tăng 7,8%), lâm sản chính trên 1,2 tỷ USD (tăng 1,0%), thủy sản đạt 800 triệu USD (tăng 0,5%) và chăn nuôi đạt 31 triệu USD (giảm 18,4%),…

Tính chung 8 tháng, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 26,15 tỷ USD, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 12 tỷ USD, giảm 3,2%; chăn nuôi ước đạt 250 triệu USD, giảm 25,0%; thủy sản ước đạt 5,2 tỷ USD, giảm 5,3%; lâm sản chính đạt trên 7,8 tỷ USD, tăng 10,3%;

Về nhập khẩu, tính chung 8 tháng, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản ước khoảng 19,9 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản chính ước đạt 16 tỷ USD, giảm 5,2%.

2 (3)

Dự báo thời gian tới giá cà phê toàn cầu khó khăn do sức mua yếu. Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Như vậy, 8 tháng năm 2020, ngành nông nghiệp xuất siêu khoảng 6,2 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2019.

Về kế hoạch trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ tiếp tục theo dõi, báo cáo thường xuyên biến động giá cả, tình hình cung cầu một số mặt hàng nông sản thiết yếu (tập trung vào mặt hàng thịt lợn, lúa gạo, rau quả), theo dõi diễn biến tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm, đối chiếu với các kịch bản về nguồn cung thực phẩm để kịp thời tham mưu cho Chính phủ.

Thường xuyên cập nhật diễn biến, tình hình tại các thị trường trọng điểm bị ảnh hưởng bởi dịch, kịp thời tham mưu, báo cáo, đề xuất giải pháp ứng phó. Theo dõi sát tình hình xuất khẩu nông sản qua các cửa khẩu biên giới với Trung Quốc.

Riêng về thuỷ sản sẽ tiếp tục tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản các đối tượng chủ lực (tôm sú, tôm chân trắng, cá tra) và các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao theo hướng nâng cao giá trị thương mại và phát triển bền vững. Cùng với đó, triển khai đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả các khuyến nghị mà Liên minh Châu Âu đưa ra đối với Việt Nam để gỡ “thẻ vàng” và hướng tới phát triển thủy sản biển bền vững. 

Về lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT sẽ tập trung chỉ đạo triển khai các biện pháp khôi phục sản xuất, chế biến, xuất khẩu lâm sản.

shareImage_1599192305

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn, tình hình thời gian tới khá khó lường bởi diễn biến dịch COVID-19 vẫn tương đối phức tạp tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu…

“Dù vậy, nếu tình hình diễn biến thị trường tiến triển tốt, vẫn như thời điểm nửa cuối tháng 6 đến nay thì dự báo ngành nông nghiệp vẫn có thể đạt được kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 41 tỷ USD cả năm. Ngược lại, nếu xảy ra tình trạng dịch COVID-19 bùng phát trở lại nghiêm trọng, các thị trường đóng cửa thì rất khó đoán định”, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT chia sẻ.

Để đạt được mục tiêu 41 tỷ USD, Bộ NN&PTNT đã và đang tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản. Ngoài ra, Bộ xác định đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu, giữ ổn định các thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng, hạn chế thấp nhất sự phụ thuộc vào một số thị trường nhất định.

Đồng thời, tìm các giải pháp khai thác hiệu quả cơ hội của các hiệp định thương mại tự do (FTA) đem lại, đặc biệt là chuẩn bị tốt các điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu khi FTA Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực…

(Theo Báo điện tử Chính phủ)

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ