Những dự án nào ở TP.HCM được mở bán từ nay đến cuối năm?

Nhàđầutư
Một loạt dự án mở bán mới sẽ chào hàng thị trường trong nửa cuối năm nay. Dẫu vậy, các chuyên gia đánh giá, nguồn cung phần lớn là phân khúc tầm cận cao cấp, cao cấp và tiếp tục vắn bóng phân khúc vừa túi tiền.
VŨ PHẠM
18, Tháng 07, 2022 | 06:14

Nhàđầutư
Một loạt dự án mở bán mới sẽ chào hàng thị trường trong nửa cuối năm nay. Dẫu vậy, các chuyên gia đánh giá, nguồn cung phần lớn là phân khúc tầm cận cao cấp, cao cấp và tiếp tục vắn bóng phân khúc vừa túi tiền.

Loạt dự án mở bán mới

Báo cáo thị trường quý II/2022 của Batdongsan.com.vn cho thấy, TP.HCM có gần 14.000 căn hộ mới chào bán trong quý vừa qua, 83% trong số đó thuộc về loại hình cao cấp, giá trên 50 triệu đồng/m2. Đặc biệt, giá bán căn hộ cao cấp tại TP.HCM vẫn liên tục tăng trong 6 tháng đầu năm. Riêng quý II, giá căn hộ cao cấp tiếp tục tăng 7% so với cùng kỳ và gần như không còn sản phẩm tầm giá dưới 40 triệu đồng/m2.

Tương tự, số liệu của CBRE Việt Nam cũng cho thấy, quý II, bình quân giá bán căn hộ sơ cấp tại TP.HCM đạt gần 57 triệu/m2, tăng 8,6% theo năm. Nguồn cung căn hộ mới tại TP.HCM đang dồn vào phân khúc cao cấp, hạng sang, căn hộ trung cấp và bình dân dịch chuyển về các tỉnh vùng ven.

Thị trường bất động sản TP.HCM vẫn rất thiếu nguồn cung cho phân khúc vừa túi tiền, điều này ảnh hưởng lớn đến việc an cư của người dân đang sinh sống và làm việc tại đại đô thị này.

mo-ban-du-an

Từ nay đến cuối năm, nhiều dự án mở bán mới hoặc giai đoạn tiếp theo nhưng không có chỗ cho phân khúc vừa túi tiền. Ảnh: Đình Nguyên

Các chuyên gia nhìn nhận, từ nay đến cuối năm, tình hình vẫn không có nhiều khả qua đối với phân khúc bình dân. Trong khi đó, một loạt các dự án từ trung, cao cấp dự kiến chào hàng ra thị trường.

Đơn cử như dự MT Eastmark City (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư Điền Phúc Thành mở bán giai đoạn 2. Dự án có mức giá rẻ nhất thị trường hiện nay là từ 39 triệu đồng/m2. The 9 Stellars (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư Ngân Thạnh mở bán giai đoạn 2 với mức giá dự kiến là 68 triệu đồng/m2

Thảo Điền Green (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư SIC mở bán giai đoạn tiếp theo với mức giá từ 118 triệu đồng/m2. Dự án Fiato Premier (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư Hưng Phú Invest mở bán giai đoạn tiếp theo với mức giá dự kiến 52 triệu đồng/m2

Dự án Stella Residence (quận 5) của chủ đầu tư Kita Group mở bán mới với giá dự kiến 116 triệu đồng/m2. Dự án Salto Residence (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư SCC mở bán mới với mức giá dự kiến 59 triệu đồng/m2… cùng một số dự án khác.

Đối phân khúc nhà phố có dự án The Classia của Khang Điền mở bán mới. Loại hình shophouse có dự án Eco Green Saigon của Xuân Mai mở bán giai đoạn tiếp theo và một loạt dự án mở bán mới của Phú Mỹ Hưng như: Grand View; The Panorama; Scenic Valley 2; Hưng Phúc Premier; Riverside Residence.

Thị trường vẫn còn đó những khó khăn

Sau đại dịch, bất động sản nhà ở vẫn được xem là kênh đầu tư bền vững cho các nhà đầu tư trung và dài hạn tại TP.HCM. Sau quý I trầm lắng với dưới 900 căn chào bán mới, thị trường chứng kiến nguồn cung mới tăng vọt trong quý II/2022. Nguồn cung mới với 15.528 căn từ 12 đợt mở bán mới, vượt qua tổng nguồn cung mới của cả năm 2021. Khu Đông, đặc biệt là TP. Thủ Đức, đóng góp đến 88% nguồn cung mới nhờ các giai đoạn tiếp theo của đại đô thị Vinhomes Grand Park.

Phân khúc cao cấp tiếp tục chiếm ưu thế trên thị trường, chiếm 93% nguồn cung mới quý này. Phân khúc trung cấp chỉ ghi nhận duy nhất một đợt mở bán mới trong khi phân khúc bình dân gần như tuyệt chủng nguồn cung mới kể từ quý I/2019. Tuy nhiên, căn hộ trung cấp đáp ứng đa số nhu cầu của người mua để ở là sản phẩm phổ biến nhất tại TP.HCM với thị phần lên đến 41% trong tổng nguồn cung tích lũy toàn thị trường.

Giá nhà tăng không ngừng nghỉ góp góp phần thay đổi cơ cấu phân khúc sản phẩm trong nguồn cung mới và thúc đẩy tăng trưởng giá sơ cấp. Giá sơ cấp trung bình toàn thị trường đạt 2.455 USD/m2, tăng 2,7% theo quý và 8,6% theo năm. Phân khúc trung cấp được hưởng lợi nhiều nhất từ việc tăng giá ở khu vực ngoài trung tâm với mức tăng giá 1,9% theo quý và 7,0% theo năm trong khi giá của phân khúc hạng sang và cao cấp giảm từ -0,6 đến -3,8% so với quý II/2021.

Nguồn cung mới tăng vọt khiến số căn bán được tăng tương ứng. Thị trường ghi nhận tổng cộng 11.259 căn chào bán thành công, tăng gần 1,4 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Bất chấp sự bùng nổ nguồn cung mới, tỷ lệ hấp thụ của các dự án mới gần như không thay đổi theo năm, trung bình ở mức 72%.

Cùng với sự tăng trưởng tích cực của nguồn cung trong nửa đầu năm 2022, thị trường dự kiến chào đón khoảng 22.000 căn hộ trong năm nay. Phân khúc cao cấp và hạng sang sẽ dẫn dắt nguồn cung mới với hàng loạt đợt mở bán tại TP. Thủ Đức và huyện Nhà Bè. Do ảnh hưởng của việc tăng giá ở khu vực ngoài trung tâm, giá sơ cấp trung bình tại TP.HCM dự kiến tăng trưởng chậm lại do giá các nguồn cung mới đều nằm ở mức đầu của phân khúc cao cấp hoặc hạng sang. Nguồn cung căn hộ trung cấp và bình dân trong tương lai tiếp tục đến từ các địa phương vệ tinh như Bình Dương, Đồng Nai, Long An và xa hơn.

Bên cạnh những tín hiệu tích cực trong giai đoạn đầu năm, thị trường đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn trước mắt bao gồm: vấn đề cấp phép, các thay đổi trong quy định pháp luật và chính sách thắt chặt tín dụng, chi phí tăng và việc mất cân đối cung cầu. Những thách thức này sẽ buộc cả chủ đầu tư và người mua phải theo dõi chặt chẽ các chuyển động của kinh tế vĩ mô và tự hoạch định giải pháp tối ưu cho mình.

Bà Dương Thùy Dung, Giám đốc điều hành CBRE Việt Nam nhận định, sau đại dịch, thị trường bất động sản nhà ở chứng kiến sự thay đổi tư duy của các chủ đầu tư. Các yếu tố xanh và thân thiện với sức khỏe sẽ được bổ sung vào dự án nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng sống của người mua. Các khu vực lân cận thành phố được dự báo tiếp tục phát triển mạnh do cơ sở hạ tầng kết nối ngày càng cải thiện và mức giá tăng cao tại TP.HCM.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24810.00 24830.00 25150.00
EUR 26278.00 26384.00 27554.00
GBP 30717.00 30902.00 31854.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26952.00 27060.00 27895.00
JPY 159.41 160.05 167.39
AUD 16033.00 16097.00 16586.00
SGD 18119.00 18192.00 18729.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17923.00 17995.00 18523.00
NZD   14756.00 15248.00
KRW   17.51 19.08
DKK   3529.00 3658.00
SEK   2286.00 2374.00
NOK   2265.00 2354.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ