Khoảng 4 triệu người nước ngoài và Việt kiều muốn sở hữu nhà ở tại Việt Nam

Nhàđầutư
Nhu cầu mua nhà của người nước ngoài, Việt kiều tại Việt Nam là rất lớn, ước tính có khoảng 4 triệu người muốn sở hữu nhà ở trong tương lai.
VŨ PHẠM
31, Tháng 07, 2023 | 13:38

Nhàđầutư
Nhu cầu mua nhà của người nước ngoài, Việt kiều tại Việt Nam là rất lớn, ước tính có khoảng 4 triệu người muốn sở hữu nhà ở trong tương lai.

Thống kê của Bộ Xây dựng cho thấy, kể từ khi Luật Nhà ở 2014 có hiệu lực đến nay, đã có khoảng 3.035 người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam, chủ yếu là các căn hộ chung cư ở dự án nhà thương mại.

Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đã mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam, tập trung chủ yếu tại các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội (1.765), TP.HCM (850), Bắc Ninh (110), Bình Dương (210), Bà Rịa - Vũng Tàu (50)... Phần lớn các cá nhân này đến từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Mỹ, Australia, Nhật Bản, Malaysia. Tuy nhiên, tổng số người nước ngoài đã mua nhà tại Việt Nam vẫn còn rất ít so với nhu cầu.

Theo Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), số lượng nhà ở được người nước ngoài mua tại Việt Nam kể từ khi Luật Nhà ở 2014 có hiệu lực chỉ chiếm khoảng 0,53% tổng lượng nhà ở trong cả nước giai đoạn 2018-2022.

Trong khi, nhu cầu mua nhà của người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, bao gồm nhu cầu sở hữu nhà để ở và nhu cầu kinh doanh là rất lớn. Ước tính có khoảng 4 triệu người muốn mua nhà ở Việt Nam trong tương lai, bao gồm người nước ngoài và Việt kiều.

bat-dong-san-nguoi-nuoc-ngoai

Khoảng 4 triệu người nước ngoài và Việt kiều muốn sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Ảnh: Lê Toàn

"Xu hướng tăng mua nhà của người nước ngoài tại Việt Nam là một tín hiệu tốt, phản ánh nước ta là một nền kinh tế phát triển nhanh và năng động, được các tổ chức uy tín quốc tế đánh giá là điểm sáng ở khu vực châu Á. Những năm gần đây, hàng loạt các nhà đầu tư "đại bàng" với dòng vốn quy mô lớn đã đổ bộ, tìm kiếm cơ hội phát triển tại Việt Nam", VARS cho hay.

Cùng với dòng vốn FDI đang ngày "chảy" mạnh, lượng người nước ngoài đến sinh sống và làm việc lâu dài tại Việt Nam cũng tăng lên hàng năm. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2005, số lượng lao động nước ngoài ở Việt Nam là 12.000 người, năm 2010 là 55.000, năm 2015 là 83.600 và năm 2019 là 117.800 người. Số lao động nước ngoài được cấp phép làm việc tại Việt Nam tính đến tháng 3/2022 là 100.000 người, tăng gấp gần 10 lần so với năm 2005.

VARS nhận định, việc làm ăn lâu dài ở Việt Nam cũng như nhu cầu đầu tư trước sức hút từ tiềm năng đầu tư BĐS ở nước ta chắc chắn sẽ nảy sinh nhu cầu sở hữu nhà ở, căn hộ. Không những vậy, giá nhà ở một số quốc gia đã quá cao hay việc siết các quy định nhập cư ở một số nước... cũng sẽ khiến nhu cầu sở hữu nhà tại Việt Nam ngày càng tăng lên.

Cần quy định cụ thể hơn thay vì gia tăng các rào cản

Việc bán nhà cho người nước ngoài là chủ đề được quan tâm khi Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi). Để người nước ngoài mua nhà tại Việt Nam không chỉ tạo điều kiện để họ yên tâm sinh sống, làm việc mà còn góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài, giải quyết lượng lớn tồn kho BĐS cao cấp khó thanh khoản.

VARS đánh giá, đây là quan điểm phù hợp với xu hướng quốc tế, mang tính tích cực. Trong đó, số lượng người nước ngoài mua nhà là dữ kiện đóng vai trò quan trọng về triển vọng thị trường và là một chỉ báo về sự năng động, độ mở, tiềm năng của nền kinh tế.

Chính sách cho phép tổ chức, cá nhân người nước ngoài mua và sở hữu nhà ở trong nước đã được quy định trong Nghị quyết 19/2008 của Quốc hội. Nhưng chỉ từ khi Luật Nhà ở 2014 bổ sung quy định điều kiện cụ thể, số lượng cá nhân, tổ chức sở hữu nhà ở tại Việt Nam mới được cải thiện.

Theo đó, người nước ngoài sẽ được sở hữu nhà ở thương mại tại Việt Nam trong vòng 50 năm, được nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá 30% số lượng căn hộ trong 1 tòa nhà chung cư hoặc không quá 250 căn đối với nhà ở riêng lẻ trong khu dân cư tương đương một đơn vị hành chính cấp phường.

Trên thực tế còn nhiều rào cản, đặc biệt là về pháp lý và thủ tục hành chính gây khó khăn trong việc tiếp cận nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi thu hút và thúc đẩy phát triển đầu tư, "giữ chân" một lượng lớn nhân sự trình độ cao đến Việt Nam làm việc, Luật Nhà ở cần được sửa đổi theo hướng minh bạch, chặt chẽ và phù hợp với quy định, thực tiễn. Các quy định cần cụ thể hơn thay vì gia tăng các rào cản và phải đồng bộ.

Cụ thể, cần tiếp tục tăng nguồn cung nhà ở, xây dựng các loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu nhà ở và đầu tư của người nước ngoài tại Việt Nam tại những khu vực được cho phép. Cho phép cá nhân nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam (nhà ở riêng lẻ và căn hộ chung cư). Quy định rõ yêu cầu về khoảng thời lao động tối thiểu còn lại tại thời điểm mua nhà.

Bên cạnh đó, để tránh đầu cơ, VARS cho rằng, cần bổ sung điều kiện gắn liền với nền kinh tế quốc gia khi người nước ngoài mua qua một số lượng nhà ở nhất định. Áp dụng thuế BĐS, lũy tiến tăng theo với số lượng BĐS đã mua. Mức thuế có thể nâng cao dần nếu chủ sở hữu BĐS không đưa BĐS tham gia hoạt động kinh doanh.

Tiếp theo, cho phép người nước ngoài có thể mua nhà ở từ công dân Việt Nam, cho phép cá nhân nước ngoài được mua các BĐS du lịch. Bởi đây là các sản phẩm cao cấp, khó thanh khoản, phù hợp với khả năng chi trả của người nước ngoài. Việc bán nhà cho người nước ngoài sẽ có thể giải quyết lượng lớn tồn kho này, giúp thị trường trở nên sôi động hơn.

"Các chính sách cần giữ nguyên, bổ sung thêm các quy định để đảm bảo yêu cầu về an ninh, quốc phòng và không gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội, tái định cư, nhà cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị như về tỷ lệ mua cũng như các khu vực được phép mua…", VARS lưu ý.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ