Hội nghị Trung ương 11: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc điều hành phiên họp bàn về kinh tế - xã hội

Nhàđầutư
Hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các đại biểu thảo luận về các báo cáo về tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020...
THẮNG QUANG
09, Tháng 10, 2019 | 17:32

Nhàđầutư
Hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các đại biểu thảo luận về các báo cáo về tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020...

Chiều 9/10, Văn phòng Trung ương Đảng đã có thông báo về nội dung ngày làm việc thứ 3 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Bộ Chính trị điều hành phiên họp.

Theo đó, sáng cùng ngày, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cùng các đại biểu làm việc tại hội trường, thảo luận về dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm năm 2016-2020, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2021-2025.

Buổi chiều, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cùng các đại biểu làm việc tại tổ, thảo luận về Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2019, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2019; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020; dự toán ngân sách nhà nước năm 2020 và Kế hoạch tài chính ngân sách ba năm 2020-2022.

hoi-nghi-trung-uong111

Hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội.

Trước đó, ngày 2/10, phát biểu khai mạc phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phấn khởi thông báo GDP 9 tháng tăng 6,98%, mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5%, mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, đặc biệt khu vực ngoài Nhà nước chiếm tỷ trọng 45,3%, tăng 16,9%.

Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách Nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP.

“Tôi có hỏi Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng vào sáng nay thì khả năng thu vượt dự toán 5% so với Quốc hội giao là khả thi và lần đầu tiên chúng ta đạt con số cao như thế, đến 15/9, đã đạt con số thu trên 1 triệu tỷ đồng”, Thủ tướng nói. Xuất khẩu trên đạt trên 190 tỷ USD, tăng 8,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu tăng 16,4%. Xuất siêu ở mức kỷ lục, gần 6 tỷ USD.

Thủ tướng cho biết thông tin mới nhận sáng nay là năm nay, tái cơ cấu mạnh mẽ ngành nông nghiệp, trong đó có ngành lâm sản xuất khẩu gỗ rừng trồng nên 9 tháng đạt con số trên 9 tỷ USD và cả năm, xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ có thể đạt trên 11 tỷ USD. Tổng cầu tiêu dùng tiếp tục tăng mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,6%. Khách quốc tế đạt 12,9 triệu lượt người, tăng 10,8%.

Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt kỷ lục với 102.000 doanh nghiệp (tăng 5,9% về số doanh nghiệp và tăng 34% về số vốn đăng ký). Kết quả điều tra kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy 87,9% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn.

“Chúng ta rất mừng khi đời sống nhân dân trên mọi miền Tổ quốc tiếp tục được cải thiện rõ nét, từ thành thị đến nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo”, Thủ tướng nói. Số hộ thiếu đói giảm 33%.

Kết quả trên càng khẳng định sự phù hợp của nhận định, đánh giá tình hình mà Ban Cán sự Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị và sắp tới trình Trung ương, đó là dự kiến năm 2019 sẽ hoàn thành toàn diện, vượt mức các mục tiêu kế hoạch đề ra, là năm thứ 2 liên tiếp đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có 5 chỉ tiêu vượt, Thủ tướng nêu rõ.

Điều đáng nói là không chỉ tăng trưởng về số lượng mà chất lượng được cải thiện rõ nét. Tăng trưởng vượt mục tiêu đề ra trong khi vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, đặc biệt lạm phát được kiểm soát tốt và các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Đời sống nhân dân chuyển biến rõ nét.

Những thành tựu đạt được rất ấn tượng và tự hào trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là tác động, ảnh hưởng nhiều mặt, không thuận của tình hình thế giới, khu vực, nhất là thiên tai, biến đổi khí hậu và dịch bệnh.

Theo nhận định của nhiều tổ chức quốc tế, do tác động của xung đột thương mại Mỹ - Trung và các yếu tố rủi ro có tính chất chu kỳ, kinh tế thế giới tăng trưởng thấp nhất từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và đang đứng bên bờ suy thoái.

Tăng trưởng kinh tế của nhiều nền kinh tế giảm mạnh (tăng trưởng của Mỹ 2%, EU 1%, Nhật Bản 0,6%, Ấn Độ 5%, Trung Quốc dưới 6%, Singapore 0%...). Nhiều nước đã bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục hạ lãi suất.

Trong bối cảnh như vậy, các tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của kinh tế khu vực và toàn cầu. ADB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 6,8% năm 2019. Standard Chartered đánh giá Việt Nam có tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt 6,9%, và tốc độ này được kỳ vọng sẽ duy trì đến năm 2021.

Citigroup Inc. đã điều chỉnh dự báo cả năm cho kinh tế Việt Nam lên 6,9%, từ mức 6,7% trước đó. Tạp chí US News &World Report vừa xếp hạng Việt Nam đứng thứ 8 trong số 20 quốc gia top đầu có nền kinh tế tốt nhất để đầu tư.

Theo Thủ tướng, điều đó khẳng định những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước để vượt qua khó khăn, thách thức từ đầu năm và mang lại kết quả khả quan, không khí phấn khởi cho toàn xã hội, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong ngoài nước, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành lãnh đạo chỉ đạo, điều hành.

Đặc biệt, kết quả đó minh chứng rõ nét cho nỗ lực vượt khó với tinh thần đổi mới, sáng tạo, đoàn kết và ý chí quyết tâm, phấn đấu vươn lên của cả dân tộc ta. “Điều đó cũng nói lên khi chúng ta đã quyết tâm thì nhất định sẽ làm được”, Thủ tướng nói.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ